Bản án về tội đánh bạc số 104/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 104/2022/HS-ST NGÀY 28/10/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 10 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2022/TLST-HS ngày 03/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2022/QĐXXST-HS ngày 14/10/2022 đối với bị cáo:

Lương Văn H; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1981; Nơi sinh: huyện K, tỉnh N; Nơi ĐKHKTT và cư trú: xóm 1, xã T, huyện K, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp:

Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/12.

Bố đẻ: Lương Công H1, sinh năm: 1954; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1956; Gia đình có 5 anh, em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Ninh Thị Đ, sinh năm: 1982, Hiện đang làm ruộng và trú tại xóm 1, xã T, huyện K, tỉnh N; Con:

có 03 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án: Bản án số 23/2020/HS-ST ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh N xử phạt số tiền 32.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm về tội Đánh bạc. H đã thi hành xong ngày 27/5/2022 nên chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 10/8/2022 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: xóm 2, xã L, huyện K, tỉnh N (vắng mặt tại phiên tòa).

+ Anh Ngô Xuân T1, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: xóm 1, xã T, huyện K, tỉnh N (vắng mặt tại phiên tòa).

+ Anh Phạm Thế A, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: xóm 1, xã T, huyện K, tỉnh N(vắng mặt tại phiên tòa).

+ Anh Phạm Việt H2, sinh năm 1985: địa chỉ cư trú: xóm 1, xã T, huyện K, tỉnh N (vắng mặt tại phiên tòa).

+ Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: xóm 2, xã T, huyện K, tỉnh N (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biễn tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Văn H là người đã bị kết án về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích.

Trưa ngày 16/6/2022 H cùng Hoàng Văn L, sinh năm 1991, trú tại xóm 2, xã L, huyện K; Ngô Xuân T1, sinh năm 1981, Phạm Thế A, sinh năm 1990, Phạm Việt H2, sinh năm 1985, đều trú tại xóm 1, xã T, huyện K đến nhà anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1981 ở xóm 2, xã T ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, khoảng 13 giờ 45 cùng ngày H, L, T1, Thế A và H2 lên phòng khách tầng 2 uống nước còn anh V ở dưới dọn dẹp. Quá trình uống nước cả nhóm thấy bộ bài tú lơ khơ ở phòng khách nên cùng nảy sinh ý định đánh bạc. Cả 05 đối tượng ngồi trên chiếu trải tại phòng khách, thống nhất bằng hình thức “Liêng” được thua bằng tiền, với mức góp gà là 10.000 đồng, tố cao nhất là 50.000 đồng.

Cả nhóm đánh bạc đến hồi 14 giờ 10 phút cùng ngày thì bị Công an xã Tân Thành, huyện K phát hiện, lập biên bản. Tại chỗ Cơ quan công an thu giữ tổng số tiền 2.290.000 đồng trên chiếu bạc; 01 bộ tú lơ khơ 52 quân; 01 chiếu tăm tre kích thước (1,5x1,55)m.

Công an huyện K đã chuyển đến tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện K số tiền 2.290.000 đồng; chuyển từ kho vật chứng của Công an huyện K đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện K các vật chứng gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 chiếu tăm tre để giải quyết cùng vụ án.

Bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 30/09/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh N đã truy tỗ bị cáo Lương Văn H về tội “Đánh bạc” quy định tại Khoản 1, 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố trong cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lương Văn H phạm tội “Đánh bạc” - Áp dụng khoản 1 và 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Văn H từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ; khấu trừ từ 5 đến 10% thu nhập sung ngân sách nhà nước; Phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng sung ngân sách nhà nước.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 và Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bộ tú lơ khơ 52 quân; 01 chiếu tăm tre kích thước (1,5x1,55)m.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 2.290.000₫ sử dụng vào việc đánh bạc.

+ Buộc bị cáo phải nộp 200.000₫ án phí hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến bào chữa, không có ý kiến tranh luận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Lương Văn H khai nhận: trưa ngày 16/06/2022, bị cáo cùng Hoàng Văn L, Ngô Xuân T1, Phạm Thế A và Phạm Việt H2 được anh Nguyễn Văn V ở xóm 2, xã T1 mời ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, khoảng 13 giờ 45 cùng ngày anh V ở dưới bếp dọn dẹp còn bị cáo, L, T1, Thế A và H2 lên phòng khách tầng 2 uống nước còn. Khi uống nước cả nhóm thấy bộ bài tú lơ khơ ở phòng khách nên cùng nảy sinh ý định đánh bạc. Cả 05 đối tượng ngồi trên chiếu trải tại phòng khách, thống nhất bằng hình thức “Liêng” được thua bằng tiền, với mức góp gà là 10.000 đồng, tố cao nhất là 50.000 đồng. Khi đánh bạc bị cáo có 900.000đ; cả nhóm đánh bạc đến hồi 14 giờ 10 phút cùng ngày thì bị Công an xã T, huyện K phát hiện, lập biên bản.

Lời khai của bị cáo còn phù hợp biên bản vi phạm hành chính lập hồi 14 giờ 10 phút ngày 16/06/2022, lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan còn được chứng minh là số tiền 2.290.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc cùng 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: trong khoảng thời gian từ 13 giờ 45 đến 14 giờ 10 ngày 16/6/2022 tại nhà Nguyễn Văn V ở xóm 2, xã T, huyện K tỉnh N; Lương Văn H là người có 01 tiền án về hành vi “đánh bạc” chưa được xóa án tích đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức “Liêng” được thua bằng tiền cùng cùng Hoàng Văn L, Ngô Xuân T1, Phạm Thế A và Phạm Việt H2 với tổng số tiền huy động vào việc đánh bạc là 2.290.000 đồng đồng. Hành vi đó của Lương Văn H đã phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1, 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

“Điều 321. Tội đánh bạc

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm ....

3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Lương Văn H về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1, 3 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người đúng tội.

[2] Về hình phạt đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ và còn là nguyên nhân nảy sinh các tội phạm về các tệ nạn xã hội khác; vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm. Khi lượng hình thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình “người phạm tội thành khẩn khai báo ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hoàn cảnh gia đình bị cáo đang phải nuôi dưỡng hai con nhỏ; hậu quả hành vi không lớn nên không cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích. Ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 321 BLHS đối với bị cáo để tăng tính răn đe và phòng ngừa.

[3] Đối với Hoàng Văn L, Ngô Xuân T1, Phạm Thế A và Phạm Việt H2 tham gia đánh bạc cùng Lương Văn H nhưng chưa bị kết án hoặc xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”, “Gá bạc hoặc tổ chức đánh bạc” nên hành vi chưa cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 BLHS. Do đó, Công an xã T đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với L, T1, A và H2 là đảm bảo đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Đối với anh Nguyễn Văn V không biết việc các đối tượng đánh bạc tại tầng hai nhà ở của mình nên anh V không vi phạm pháp luật; tuy nhiên cần nhắc nhở anh thận trọng tránh để xảy ra hành vi tương tự gây ảnh hưởng an ninh trật tự.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền đánh bạc đã thu giữ là 2.290.000 đồng là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 chiếu tăm tre đã cũ là vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện K; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh N: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo, người liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 và 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 và 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án

1. Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn H phạm tội “Đánh bạc".

2. Phạt bị Lương Văn H 16 (mười sáu) tháng cải tạo không giam giữ; phạt bổ sung 12.000.000₫ sung ngân sách nhà nước. Khấu trừ 5% thu nhập của bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ sung quỹ nhà nước.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã T nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho UBND xã T, huyện K, tỉnh N nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền đánh bạc là 2.290.000 đồng - Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân và 01 chiếu tăm tre đã cũ. Chi tiết vật chứng như trong biên bản bản giao vật chứng giữa Công an huyện K và chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 03/10/2022

4. Án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000₫ án phí hình sự sơ thẩm .

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 104/2022/HS-ST

Số hiệu:104/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về