Bản án về tội đánh bạc số 102/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 102/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2022/QĐXXST- HS ngày 12/9/2022 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn H1, sinh năm 1994; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu X, phường Đ, thành phố TS, tỉnh BN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12 /12; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn P, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1966; gia đình có 3 anh em, bị cáo thứ ba; có vợ là Trần Thị G, sinh năm 1993 và có 2 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 01/6/2022 đến ngày 07/6/2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; hiện tại ngoại; có mặt.

2. Nguyễn Thị Lâm H2, sinh năm 1967; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu X, phường Đ, thành phố TS, tỉnh BN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế Ph, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1942; gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ nhất; có chồng là Nguyễn Tiến L, sinh năm 1963 và có 2 con, con lớn sinh năm 1986, con nhỏ sinh năm 1991; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 01/6/2022 đến ngày 03/6/2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; hiện tại ngoại; có mặt.

3. Đoàn Ngọc P, sinh năm 1971; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu X, phường Đ, thành phố TS, tỉnh BN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Ngọc Đ (đã chết) và bà Ngô Thị A, sinh năm 1939; gia đình có 04 anh em, bị cáo thứ hai; có vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1975 và có 2 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 03/6/2022; hiện tại ngoại; có mặt.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Thạc Tuấn, sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT:

Khu X, phường Đ, thành phố TS, tỉnh BN; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ khoảng cuối tháng 5/2022 Trần Văn H1 lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày để đánh bạc bằng hình thức bán các số lô, số đề cho nhiều người. H1 thu với giá số đề từ 83% tiền mua số đề, số lô xiên H1 thu 70% tiền mua số còn giá số lô H1 tính điểm lô từ 21.750 đồng đến 21.800 đồng. Việc bán số kết thúc trước giờ mở thưởng kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc trong ngày. Sau đó H1 so sánh các số lô, đề đã bán trong ngày với kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày để tính thắng thua. Việc thanh toán tiền thắng - thua với người mua số vào ngày hôm sau.

Ngày 01/6/2022, Đoàn Ngọc P sử dụng điện thoại di động gắn sim số 0365.581.xxx nhắn 4 tin SMS đến số điện thoại 0334.384.xxx của H1 mua 138 số đề với tổng số tiền 4.385.000 đồng và 26 số lô với 220 điểm. Theo thỏa thuận giữa H1 và P: H1 thu tiền bán số đề 83% tiền mua số, 1 điểm lô giá 21.800 đồng. Như vậy số tiền mua số P phải thanh toán cho H1 là: (4.385.000 đồng x 83%) + (220 điểm x 21.800 đồng/ 1 điểm) = 8.435.550 đồng. Cũng trong ngày 01/6/2022 Nguyễn Thị Lâm H2 sử dụng điện thoại Iphone 7, gắn sim số 0349.051.xxx nhắn 13 tin SMS đến số điện thoại 0334.384.xxx của H1 mua 129 số đề với tổng số tiền 3.810.000 đồng và 13 số lô với 265 điểm, 11 số 3 càng với tổng số tiền 160.000 đồng và 01 cặp lô xiên 2 với số tiền 100.000 đồng. Theo thỏa thuận giữa H1 và H2: H1 thu tiền bán số đề 83% tiền mua số, tiền bán số lô xiên H1 thu 70% tiền mua số, 1 điểm lô giá 21.750 đồng. Như vậy số tiền mua số H2 phải thanh toán với H1 là: (3.810.000 đồng x 83%) + (265 điểm x 21.750 đồng/ 1 điểm) + (160.000 đồng x 83%)+ (100.000 đồng x 70%)=9.128.850 đồng.

Sau khi H1 bán các số lô, đề cho H2 và P, khoảng 18 giờ 10 phút ngày 01/6/2022 khi H1 đang tập hợp các số lô, đề đã bán trong ngày để so với kết quả xổ số thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Như vậy, tổng số tiền H1 bán số lô, đề trong ngày 01/6/2022 cho Nguyễn Thị Lâm H2 và Đoàn Ngọc P là 17.564.400 đồng. Toàn bộ số tiền mua, bán số lô, số đề giữa Trần Văn H1 với Nguyễn Thị Lâm H2 và Đoàn Ngọc P chưa thanh toán với nhau. Đối với việc mua, bán số lô, đề của H1 trước ngày 01/6/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B không chứng minh cụ thể H1 bán số lô, số đề cho ai, những số nào, tiền mua số bao nhiêu, vì vậy chưa có căn cứ để buộc H1 chịu trách nhiệm hình sự.

Vật chứng, tài liệu thu giữ: 01 (một) điện thoại di động Iphone 7 có sim số điện thoại 0334.384.xxxvà 30 triệu của Trần Văn H1; 01(một) điện thoại di động Iphone 7 có sim số điện thoại 0349.051.xxx của Nguyễn Thị Lâm H2.

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 82 CT – VKS – P2 ngày 19 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố các bị cáo Trần Văn H1, Nguyễn Thị Lâm H2, Đoàn Ngọc P về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Cả 3 bị cáo đều thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, khoan H2 giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện VKSND tỉnh B thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Văn H1, Nguyễn Thị Lâm H2, Đoàn Ngọc P phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn H1 từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Thị Lâm H2 và Đoàn Ngọc P, mỗi bị cáo từ 25.000.000đ đến 30.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Truy thu sung quỹ tiền dùng vào việc đánh bạc: Của bị cáo H2 9.128.850 đồng; bị cáo P 8.435.550 đồng; 01 (một) điện thoại di động Iphone 7 có sim số điện thoại 0334.384.xxx của Trần Văn H1; 01(một) điện thoại di động Iphone 7 có sim số điện thoại 0349.051.xxx của Nguyễn Thị Lâm H2. Trả lại bị cáo H1 30.000.000đ nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Các bị cáo đều không có ý kiến gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các tin nhắn thu được trong điện thoại của bị cáo H1, H2, P và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Trần Văn H1 lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày đánh bạc trái phép bằng hình thức lô, đề. Ngày 01/6/2022 Trần Văn H1 bán các số lô, đề cho Nguyễn Thị Lâm H2 và Đoàn Ngọc P được tổng số 17.564.400đồng, trong đó bán cho Nguyễn Thị Lâm H2 được 9.128.850 đồng; bán cho Đoàn Ngọc P được 8.435.550 đồng. Khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày khi H1 đang tập hợp các số lô, đề đã bán trong ngày để so với kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo H1, H2 và P đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là phù hợp với pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa P và là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Do vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Xét vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, HĐXX nhận thấy: Các bị cáo đồng phạm giản đơn, trong đó H1 giữ vai trò chính. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo H1, H2, P đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã nộp trước khi xét xử một khoản tiền để đảm bảo thi hành án, nên được áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo P có bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến hạng 3; bị cáo H2 và P sau khi phạm tội còn đến cơ quan điều tra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, số tiền đánh bạc ít, vì vậy cần phạt 03 bị cáo hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4]. Về xử lý vật chứng: Đối với điện thoại của bị cáo H1 và H2 dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước. Số tiền 30.000.000đ của bị cáo H1 không phải là tiền phạm tội mà có, nên trả lại.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo Trần Văn H1, Nguyễn Thị Lâm H2, Đoàn Ngọc P phạm tội “Đánh bạc” 2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 của Bộ luật hình sự:

- Phạt bị cáo Trần Văn H1 30.000.000 đồng (xác nhận bị cáo H1 đã nộp 30.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số: AA/2021/0000611 ngày 20/9/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B).

- Phạt bị cáo Nguyễn Thị Lâm H2 và Đoàn Ngọc P, mỗi bị cáo 25.000.000 đồng sung ngân sách nhà nước (Xác nhận bị cáo H2 và P, mỗi bị cáo đã nộp 20.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số: AA/2021/0000612 ngày 20/9/2022 và Biên lai thu tiền số: AA/2021/0000xxx ngày 23/9/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B). Bị cáo H2 và bị cáo P, mỗi bị cáo còn phải nộp tiếp 5.000.000 đồng.

3. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động Iphone 7 có sim số điện thoại 0334.384.xxxcủa Trần Văn H1; 01(một) điện thoại di động Iphone 7 có sim số điện thoại 0349.051.xxx của Nguyễn Thị Lâm H2.

- Truy thu tiền đánh bạc để sung ngân sách nhà nước gồm: Của bị cáo H2 9.128.850 đồng, bị cáo P 8.435.550 đồng.

- Trả lại bị cáo H1 30.000.000 đồng.

(Vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 100/2022 ngày 23/8/2022 giữa PC02- Công an tỉnh B và Cục thi hành án dân sự tỉnh B).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2xxxquy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Trần Văn H1, Nguyễn Thị Lâm H2, Đoàn Ngọc P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 102/2022/HS-ST

Số hiệu:102/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về