Bản án về tội đánh bạc số 09/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Ngọc T, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện L, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc T và bà Trần Thị Th1; vợ là Phan Thị Th2; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 29/12/2021 đến ngày 06/01/2022; hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 06/01/2022 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đỗ Văn S, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn 5, xã N, huyện L, tỉnh H; vắng mặt.

2. Anh Đinh Bảo L, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn 1, xã N, huyện L, tỉnh H; vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Phan Thị Th3; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 29/12/2021, Đỗ Văn S và Đinh Bảo L đến nhà Trần Ngọc T ở thôn M, xã N, huyện L, tỉnh H đánh bạc trái phép dưới hình thức mua số lô, số đề, cụ thể như sau:

- Đỗ Văn S đã mua của Trần Ngọc T các số lô: 56 (50 điểm), 65 (100 điểm), tổng 150 điểm lô x 23.000đ/01 điểm = 3.450.000 đồng; số đề 83, 74, 47 mỗi số 50.000 đồng. Tổng tiền số lô, số đề S mua của T là 3.600.000 đồng.

- Đinh Bảo L đã mua của Trần Ngọc T các số lô: 97, 79 (mỗi số 50 điểm), tổng 100 điểm lô x 23.000đ/01 điểm = 2.300.000 đồng; số lô xiên 3: 79, 86, 90 là 300.000 đồng; số lô xiên 2: 09, 86 là 200.000 đồng. Tổng tiền số lô L mua của T là 2.800.000 đồng.

Sau khi nhận tiền từ S và L, T đưa cho S và L 02 tờ cáp ghi số lô, số đề thì bị Tổ công tác của Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Nhân Mỹ, huyện Lý Nhân, phát hiện bắt quả tang, thu giữ các vật chứng gồm:

- Thu trong túi áo khoác bên trái của Trần Ngọc T đang mặc số tiền 6.300.000 đồng và 01 tờ giấy có kích thước (5,5 x 9)cm, một mặt có ghi chữ và số tự nhiên, một mặt trắng. Thu tại túi áo khoác bên phải T đang mặc số tiền 1.500.000 đồng; Thu trên mặt bàn bi-a trước mặt nơi T bán số lô, đề số tiền 100.000 đồng, 01 bút bi nhãn hiệu “Thiên Long” màu đen, 01 cuộn giấy màu trắng có đường kính 04cm, cao 5,5cm, phần lõi cuộn giấy bằng nhựa màu đen;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7;

- Thu của Đỗ Văn S: 01 tờ giấy có kích thước (5,5 x 2,6)cm một mặt có ghi chữ và số, một mặt trắng.

- Thu của Đinh Bảo L: 01 tờ giấy có kích thước (5,5 x 5)cm một mặt có ghi chữ và số, một mặt trắng.

Khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Trần Ngọc T tại thôn M, xã N, huyện L thu giữ: Thu tại mặt bàn nơi T điều hành quán Internet 01 quyển vở ô ly vuông, kích thước (17 x 24)cm bên trong có 40 trang giấy, trong đó có 01 trang ghi các số tự nhiên bằng bút màu đen, còn 39 trang còn lại đều là giấy trắng.

Cách thức đánh bạc với người chơi của Trần Ngọc T như sau: Các số đề, số lô, số lô xiên được so với kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày. Cụ thể: Đối với số đề là hai số tự nhiên gồm 2 chữ số từ 00 đến 99 được so với 2 số cuối cùng của giải đặc biệt, nếu người mua trúng thì T phải trả tiền gấp 70 lần số tiền họ đã mua; đối với số lô là hai số tự nhiên gồm 2 chữ số từ 00 đến 99 được so với 2 số cuối cùng của 27 giải thưởng, 1 điểm lô người mua trả cho T 23.000 đồng, nếu trúng thì T phải trả cho người chơi 80.000 đồng. Trường hợp các số lô của người chơi mua trùng với nhiều giải thì T còn phải trả số tiền được nhân lên tương ứng với số lần trùng đó; đối với số lô xiên hai, xiên ba: Người chơi mua 2 hoặc 3 cặp số sau đó so với hai số cuối của 27 giải thưởng, nếu trùng cả hai hoặc ba cặp số thì người chơi sẽ được trả thưởng với tỷ lệ tương ứng gấp 10 lần và 40 lần số tiền đã mua. Các hình thức chơi số lô, số đề, lô xiên nêu trên nếu người chơi không trúng thì mất toàn bộ số tiền đã mua số lô, số đề với T.

Tại Bản kết luận giám định số 04/KL-PC09-CH ngày 19/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3 và A5 so với chữ viết của Trần Ngọc T trên tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M5 do cùng một người viết ra; Mảnh giấy ký hiệu A1, A2, A3 được xé ra từ cuộn giấy ký hiệu A4.

Kết quả điều tra xác định được trước đó ngày 28/12/2021, T đã bán trái phép cho người chơi lạ mặt số lô là 1.840.000 đồng, số đề 670.000 đồng, người mua đã trúng thưởng số lô là 400.000 đồng.

Quá trình điều tra Trần Ngọc T khai: T tự làm chủ đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi số lô, số đề với người chơi; đầu tháng 12/2021 T bắt đầu bán trái phép số lô, số đề tại nhà mình cho những người có nhu cầu mua.

Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 bút bi màu đen, 01 cuộn giấy màu trắng đã thu giữ là công cụ Trần Ngọc T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; Đối với số tiền 7.900.000 đồng, 01 điện thoai di động nhãn hiệu Ịphone 7 Plus, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A7 đã thu giữ, tài liệu điều tra xác định số tiền 6.400.000 đồng là tiền do Trần Ngọc T bán số lô, đề trái phép mà có; số tiền 1.500.000 đồng, 02 điện thoại di động là tài sản hợp pháp của Trần Ngọc T không liên quan đến vụ án, đều được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân để phục vụ công tác xét xử và thi hành án.

- Đối với 03 mảnh giấy có kích thước lần lượt là (5,5 x 9)cm, (5,5 x 2,6)cm và (5,5 x 5)cm; 01 quyển vở có 40 trang được lưu trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSLN ngày 02/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Ngọc T về tội “Đánh bạc”, theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Ngọc T từ 12 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng; phạt bổ sung bị cáo từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước và đề xuất hướng xử lý vật chứng vụ án.

- Bị cáo Trần Ngọc T khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý nhân đã truy tố; không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo và những ngươi tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Trần Ngọc T tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với vật chứng thu được cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Do đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 29/12/2021, tại nhà Trần Ngọc T ở thôn M, xã N, huyện L, tỉnh H, Trần Ngọc T đánh bạc trái phép dưới hình thức bán số lô, số đề cho Đỗ Văn S và Đinh Bảo L với tổng số tiền là 6.400.000 (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) thì bị lực lượng Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Nhân Mỹ bắt quả tang.

Trước đó ngày 28/12/2021, Trần Ngọc T đánh bạc trái phép dưới hình thức bán số lô, số đề cho người lạ mặt với tổng số tiền 2.910.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Trần Ngọc T đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của Trần Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn nông thôn. Bị cáo là người trưởng thành và ở độ tuổi nhận thức rõ về pháp luật, nhưng chỉ vì muốn có tiền nhanh chóng từ việc thu lời bất chính, đã lợi dụng kết quả xổ số mở thưởng hàng ngày của Nhà nước để sát phạt với các đối tượng trên địa bàn. Xét thấy, cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo để răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gia đình bị cáo có bác ruột là Liệt sỹ Trần Ngọc Đ và bà nội là bà Lê Thị L là bà mẹ Việt nam anh hùng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, xét thấy Trần Ngọc T có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo đều chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân nơi cư trú; bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng nào; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo, dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng cải tạo bị cáo mà không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội. Phù hợp với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà; đảm bảo đúng Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hành vi phạm tội của Trần Ngọc T có mục đích thu lời bất chính, nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật đối với loại tội phạm này. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo để áp dụng mức phạt cho phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 7.900.000 đồng có 6.400.000 đồng là tiền do Trần Ngọc T bán số lô, số đề trái phép mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; số tiền còn lại 1.500.000 đồng và 01 điện thoai di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A7 không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại bị cáo T, nhưng tiếp tục quản lý để bảo đảm thi hành án dân sự.

- Đối với 01 bút bi màu đen, 01 cuộn giấy màu trắng đã thu giữ là công cụ Trần Ngọc T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; không có giá trị sử dụng, tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 03 mảnh giấy có kích thước lần lượt là (5,5 x 9)cm, (5,5 x 2,6)cm và (5,5 x 5)cm; 01 quyển vở có 40 trang được lưu trong hồ sơ vụ án.

Đối với số tiền Trần Ngọc T bán số lô, số đề ngày 28/12/2021 là 2.910.000 đồng, sau khi trả thưởng cho người chơi T thu lời bất chính số tiền 2.510.000 đồng cần truy thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo.

[9] Các vấn đề khác: Đối với Đỗ Văn S và Đinh Bảo L có hành vi mua số lô, số đề của Trần Ngọc T ngày 29/12/2021. Tuy nhiên, hành vi của S và L chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an huyện Lý Nhân đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Đỗ Văn S và Đinh Bảo L là đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 12 (Mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Ngọc T cho Uỷ ban nhân dân xã Nhân Mỹ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ Điều 35 và khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Phạt tiền Trần Ngọc T 3.000.000 (Ba triệu) đồng nộp Ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 6.400.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền 2.510.000 (Hai triệu năm trăm mười nghìn) đồng của Trần Văn T nộp ngân sách nhà nước.

- Trả lại bị cáo Trần Ngọc T số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm năm nghìn đồng); 01 điện thoai di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A7 (được niêm phong trong phong bì dán kín ký hiệu A7), nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án dân sự.

- Tịch thu và tiêu huỷ: 01 bút bi nhãn hiệu Thiên Long màu đen, 01 cuộn giấy màu trắng.

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm, tình trạng, số hiệu được ghi trong biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 07/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Lý Nhân và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân và Uỷ nhiệm chi số 02 ngày 02/3/2022).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về