Bản án về tội đánh bạc số 07/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC   

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC    

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2021/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm (theo thủ tục ruát gọn) số: 07/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Đỗ Thị L, sinh ngày 15/6/1967 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn T T, xã Đ T, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Hoàng Thị C1, sinh năm 1924; chồng: Ngô Văn H, sinh năm 1969, con: Có 02 con (lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 2000); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Đặng Văn N, sinh năm 1991; trú tại: Thôn K L, xã H P, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt),

2. Hoàng Văn N1, sinh năm 1993; trú tại: TDP T G, phường K Q, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/12/2020 Đỗ Thị L là đại lý bán vé xổ số của Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết Vĩnh Phúc, mang 01 bàn inox và 01 ghế nhựa từ nhà đến đường Nguyễn Duy Thì cách chợ Định Trung thuộc thôn Gia Viễn, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc giao nhau với đường Nguyễn Viết Tú khoảng 100m để bán xổ số. Lợi dụng hoạt động bán vé xổ số, L thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức mua bán số lô, số đề cho khách nào có nhu cầu. Khoảng 17 giờ 20 phút 1 cùng ngày, Đặng Văn N đi bộ đến hỏi mua số lô, số đề. L đồng ý và bán cho N số lô 01, 10 mỗi số 40 điểm tổng 02 số lô bằng 80 điểm với giá 22.500đ/1 điểm (80 x 22.500đ = 1.800.000đ) và số đề 01, 10 mỗi số 200.000đ tổng là 400.000đ; N đưa số tiền đánh bạc dưới hình thức mua 02 số lô và 02 số đề là 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng) cho L. L ghi số lô, số đề mà Đặng Văn N vừa mua vào mặt sau của một tờ vé số. Lúc này có Hoàng Văn N1 đi bộ đến hỏi mua số lô, số đề của L. L đồng ý và bán số lô, số đề cho Hoàng Văn N1 số lô 12, 21 mỗi số 50 điểm; số lô 90 là 30 điểm, tổng 3 số lô là 130 điểm với giá 22.500đ/1 điểm (130 x 22.500đ = 2.925.000đ). L viết những số lô mà Hoàng Văn N1 đã mua cùng vào mặt sau của một tờ vé số vừa viết cho Đặng Văn N rồi ký tên. Sau đó L nhận số tiền 2.925.000đ từ Hoàng Văn N1 thì bị cơ quan Công an thành phố Vĩnh Yên bắt quả tang. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ tang vật gồm: 5.125.000đ (Năm triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng); 01 bút bi; 01 tờ vé số lô tô - xổ số kiến thiết Vĩnh Phúc ngày 10/12/2020; 01 quyển sổ ghi kết quả mở thưởng hàng ngày; 01 bàn inox; 01 ghế nhựa và lập biên bản theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, xác định Đỗ Thị L với Hoàng Văn N1 và Đặng Văn N thống nhất thoả thuận cách thức đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề. Kết quả trúng lô, đề quyết định thắng thua căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào 18 giờ 15 phút cùng ngày, có 27 giải số lô là số các con bạc mua đối chiếu với hai số cuối của tất cả các giải mở thưởng, nếu có số lô nào trùng với một trong 27 giải đó thì con bạc mua số lô đó thắng, mỗi số lô con bạc mua với giá 22.500đ. Nếu con bạc thắng thì L phải trả 01 điểm lô là 80.000đ. Số đề là số các con bạc đối chiếu với hai chữ số cuối cùng của giải đặc biệt, nếu số đề các con bạc mua trùng với số này thì con bạc thắng và được gấp 70 lần số tiền đã mua.

Tại Quyết định truy tố số: 10/QĐ-VKSTPVY ngày 08/01/2021, Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Đỗ Thị L, về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra bị Đỗ Thị L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Thị L vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã khai nhận phù hợp với nội dung quyết định đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Thị L từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 02 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo L cho Ủy ban nhân dân xã Định Trung giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 5.125.000đ; tịch thu tiêu hủy 01 bút bi; 01 quyển sổ; 01 bàn inox; 01 ghế nhựa.

Bị cáo không có bào chữa và tranh luận bổ sung gì khác. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo L tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vât đa thu giư, cac tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/12/2020, tại đường Nguyễn Duy Thì thuộc thôn Gia Viễn, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, tổ công tác Công an thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ, phát hiện bắt quả tang Đỗ Thị L có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề cho anh Đặng Văn N và Hoàng Văn N1. Quá trình điều tra xác định, tổng số tiền Đỗ Thị L sử dụng vào việc đánh bạc là 5.125.000đ (trong đó, đánh bạc với anh Đặng Văn N số tiền 2.200.000đ và đánh bạc với anh Hoàng Văn N1 số tiền 2.925.000đ).

Hành vi nêu trên đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng đươhc pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự tri ̣an và an toàn cho xã hội. Đánh bạc là tệ nạn xã hội, đồng thời còn la một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, do đó, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xet tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, cac tinh tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định rõ ràng đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương nên cần chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo được hưởng án treo là có căn cứ.

[3] Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập của bị cáo: Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 và khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, ngoài ra còn có thể bị khấu trừ từ 5 đến 20% thu nhập hàng tháng để sung ngân sách Nhà nước. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, kinh tế gia đình khó khăn, không có nguồn thu nhập ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung, cũng như khấu trừ thu nhập đối với bị cáo là có căn cứ.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với Đặng Văn N và Hoàng Văn N1 có hành vi tham gia đánh bạc bằng hình thức “ghi số lô, số đề”. Do số tiền Đặng Văn N và Hoàng Văn N1 dùng vào việc đánh bạc chưa đủ quy mô để truy cứu trách nhiệm hình sự, hơn nữa nhân thân của Đặng Văn N và Hoàng Văn N1 đều chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị kết án về hành vi Đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên hành vi của Đặng Văn N và Hoàng Văn N1 chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại điều 321 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Công an thành phố Vĩnh Yên đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Đặng Văn N và Hoàng Văn N1 về hành vi Đánh bạc, mức phạt 200.000đ mỗi người là có căn cứ đúng pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với số tiền 5.125.000đ Cơ quan điều tra thu giữ của Đỗ Thị L, quá trình điều tra xác định là tiền L đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số đề cho Đặng Văn N và Hoàng Văn N1 mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 bút bi; 01 quyển sổ; 01 bàn inox; 01 ghế nhựa thu giữ của Đỗ Thị L là vật chứng của vụ án liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Thị L 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đỗ Thị L cho Uỷ ban nhân dân xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian của án treo.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành thời gian thử thách chuyển đi nơi khác thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 5.125.000đ. Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi; 01 quyển sổ; 01 bàn inox; 01 ghế nhựa thu giữ của Đỗ Thị L (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 11/01/2021).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đỗ Thị L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

634
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 07/2021/HS-ST

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về