Bản án về tội đánh bạc số 04/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XT, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 18/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XT, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 85/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm Bá D (tên gọi khác Phạm Văn D), sinh ngày 14/7/1989 tại xã XN, huyện XT, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm T 1, xã XN, huyện XT, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K, sinh năm 1960 (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1960; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Q, sinh năm 1989; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 24/12/2020, bị Công an huyện XT, tỉnh Nam Định ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”; bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 01/10/2021 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; “có mặt”.

- Người làm chứng: Chị Bùi Thị H; “vắng mặt”.

- Người chứng kiến: Anh Đinh Công K; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/12/2020, Phạm Bá D đã bị Công an huyện XT xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 22/9/2021, Phạm Bá D nảy sinh ý định đánh bạc ăn tiền bằng hình thức mua số lô, số đề, số ba càng nên D đi bộ từ nhà đến điểm bán xổ số của Bùi Thị H ở khu vực xóm 13, xã Xuân Kiên. D hỏi H mua số lô, số đề, số ba càng, H đồng ý bán, bên mua và bên bán thống nhất cách chơi như sau: Người mua bỏ một khoản tiền để mua một hay nhiều số lô, số đề, số ba càng để trả cho người bán: Nếu số lô của người mua từ 00 đến 99 trùng với 02 số cuối của 27 giải xổ số là trúng và sẽ hưởng số tiền một điểm lô mua với giá 22.000 đồng được nhận 80.000 đồng; nếu số đề của người mua từ 00 đến 99 trùng với hai số cuối giải đặc biệt là trúng thưởng sẽ được hưởng số tiền là 1.000 đồng được nhận 70.000 đồng; số ba càng người mua từ 000 đến 999 trùng với 03 số cuối của giải đặc biệt là trúng sẽ được hưởng số tiền là 1.000 đồng được nhận 400.000 đồng. Phạm Bá D mua của Bùi Thị H 02 số lô là “48” và số “49”, mỗi số 20 điểm, tổng cộng 40 điểm với giá 22.000 đồng trên 01 điểm lô, số tiền D bỏ ra mua các số lô là:

880.000 đồng. Đồng thời D mua 04 số đề là các số: 46, 47, 48, 49 mỗi số 22.000 đồng, nhưng H đã bán khuyến mãi cho D mỗi số đề 2000 đồng nên thực tế D chỉ phải trả 20.000 đồng trên một số đề đã mua, số tiền mà D bỏ ra mua số đề là:

80.000 đồng và mua 02 số ba càng là số “548” và “648” mỗi số 20.000 đồng, số tiền mà D bỏ ra mua số ba càng là 40.000 đồng. Như vậy tổng số tiền D bỏ ra mua các số lô, số đề, số ba càng là 1.000.000 đồng. D thỏa thuận trả trước cho H 480.000 đồng, còn nợ lại H 520.000 đồng, H đồng ý và viết các số lô, số đề, số ba càng vào một tờ tích kê kích thước (7x10) cm có nội dung: “Ngày 22 tháng 9 năm 2021, 48, 49/20đ; 46, 47, 48, 49/22N; 548, 648/20N; N520” và ký tên H vào tờ giấy trên rồi đưa cho D. H giữ lại bản in qua giấy than. D vừa nhận tờ tích kê ghi các số lô, số đề, số ba càng và đưa lại cho H 480.000 đồng thì bị Tổ công tác Công an huyện XT phát hiện bắt quả tang. Tổ công tác đã mời người chứng kiến tiến hành lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ của Phạm Bá D 01 tờ tích kê có ghi các số lô, số đề, số ba càng có chữ ký của H và thu giữ của H số tiền 480.000 đồng cùng tờ tích kê bản in qua giấy than, 01 tờ giấy than kích thước 7x10cm.

Cơ quan CSĐT huyện XT đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại địa điểm bán vé xổ số của H thu giữ những đồ vật, tài liệu sau: 02 tập giấy (tích kê), kích thước: 7x10cm gồm 01 tập 26 tờ và 01 tập 38 tờ; 01 tập giấy trắng kích thước 14,5x06 cm, gồm 101 tờ; 01 cuốn sổ, kích thước: (24x17)cm; 01 hợp đồng đại lý bán vé xổ số năm 2021; 01 máy tính nhãn hiệu CASIO.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại công ty TNHH Một Thành Viên xổ số kiến thiết Nam Định, tỉnh Nam Định xác định: Trong danh sách đại lý bán vé số do Công ty quản lý có hợp đồng đại lý mang tên Bùi Thị H, giờ mở thưởng hàng ngày của hội đồng xổ số kiến thiết miền Bắc vào lúc 18 giờ 15 phút và kết thúc vào hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Bá D và Bùi Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc trái phép của bản thân như đã nêu trên.

Cáo trạng số 85/CT-VKSXT ngày 17/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XT truy tố bị cáo Phạm Bá D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Phạm Bá D phạm tội “Đánh bạc”;

- Về tội danh và hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự;

+ Tuyên bố bị cáo Phạm Bá D phạm tội “Đánh bạc”; xử phạt bị cáo Phạm Bá D từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm cải tạo không giam trữ, được khấu trừ thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2021 đến ngày 01/10/2021.

+ Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000đ;

- Tịch thu tiêu huỷ 01 máy tính nhãn hiệu CASIO đã cũ không còn giá trị sử dụng.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên và bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện XT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện XT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại gì. Như vậy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 22/9/2021 tại xóm 13, xã Xuân Kiên, huyện XT, tỉnh Nam Định, Phạm Bá D tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức mua các số lô: “48” và số “49”; các số đề: “46, 47, 48, 49”; số ba càng: “548” và “648” của Bùi Thị H với tổng số tiền là 1.000.000 đồng thì bị Tổ công tác Công an huyện XT phát hiện quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện XT truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật như trên là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Hành vi đánh bạc của bị cáo Phạm Bá D là nguy hiểm, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong nhân dân, bị pháp luật nghiêm cấm. Từ việc được, thua số lô, số đề có thể gây ra nhiều tệ nạn xã hội khác, phá hủy hạnh phúc bao gia đình. Bị cáo là người nhận thức, phát triển bình thường, ý thức được việc đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền đều vi phạm pháp luật. Nhưng vì hám tiền, bị cáo bất chấp vẫn bán số lô, số đề cho người khác. Điều này chứng tỏ ý thức coi thường pháp luật và bất chấp hậu quả của bị cáo. Do đó để góp phần đấu tranh, dẹp bỏ tệ nạn cờ bạc, cần phải xử lý nghiêm bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là phù hợp.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo hưởng án phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo, giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát trong thời gian cải tạo cũng đủ sức răn đe, cải tạo giáo dục bị cáo, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng của vụ án: Hiện 02 tờ tích kê đã ghi số lô, số đề, số ba càng, 01 tờ giấy than cùng 01 tập giấy kích thước 7x10 cm gồm 38 tờ, 01 cuốn sổ đã thu giữ được đưa vào hồ sơ vụ án; 02 tập giấy màu trắng, 01 tập 26 tờ, 01 tập 101 tờ, 01 hợp đồng đại lý vé xổ số của H không liên quan đến vụ án đã được trả lại cho Bùi Thị H;

Xét cần tịch thu tiêu huỷ 01máy tính nhãn hiệu CASIO đã cũ không còn giá trị sử dụng.

Số tiền 480.000 đồng thu của Bùi Thị H và số tiền 520.000 đồng D tự nguyện nộp cho Cơ quan điều tra (là số tiền D còn nợ H khi thực hiện hành vi đánh bạc). Xét đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[8] Đối với Bùi Thị H có hành vi bán số lô, số đề, số ba càng trái phép. Xét hành vi không cấu thành tội phạm nên Công an huyện XT quyết định xử phạt hành chính đối với H là phù hợp.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Phạm Bá D phạm tội “Đánh bạc”;

- Xử phạt bị cáo Phạm Bá D 01 (một) năm 9 (chín) tháng cải tạo không giam giữ, được khấu trừ 09 ngày đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày từ ngày 22/9/2021 đến ngày 01/10/2021 bằng 27 ngày cải tạo không giam giữ; bị cáo còn phải chấp hành 01 năm 8 tháng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã nơi bị cáo cư trú nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Phạm Bá D.

Giao bị cáo Phạm Bá D cho Ủy ban nhân dân xã XN, huyện XT, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của người bị kết án trong việc giám sát, giáo dục người đó.

2. Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) - Tịch thu tiêu huỷ 01máy tính nhãn hiệu CASIO đã cũ không còn giá trị sử dụng.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 24/CCTHA ngày 20/12/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện XT và Chi cục Thi hành án dân sự huyện XT và Biên lai thu tiền số 0001562 ngày 21/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện XT).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Phạm Bá D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về