Bản án về tội đánh bạc số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 06/07/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 29/6/2023 và 06/7/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2023/TLST-HS ngày 24/5/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2023/QĐXXST-HS ngày 14/6/2023, đối với các bị cáo:

1. Trịnh Q, sinh ngày 03 tháng 9 năm 1950 tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; quê quán: Xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú hiện nay: Thôn BA, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Kim N và bà Trần Thị T (đều đã chết); vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1954 và có 04 con đều đã trưởng thành; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo đang được tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Ngọc Th, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1965 tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; quê quán: Xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú hiện nay: Thôn BA, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần H và bà Nguyễn Thị H (đều đã chết); vợ là Huỳnh Thị L, sinh năm 1968 và có 03 con; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo đang được tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Phan Văn Th, sinh năm 1958;

2. Ông Dương C, sinh năm 1946;

3. Bà Lê Thị Th, sinh năm 1973;

Cùng trú tại: Thôn PB, xã SV, huyện Nông Sơn, Quảng Nam.

4. Ông Hồ Quang C, sinh năm 1949; trú tại: Thôn T, xã Q, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Đều có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng trưa ngày 23/02/2023, tại nhà của ông Phan Văn Thành ở thôn PB, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th cùng các đối tượng: Phan Văn Thành, Dương C, Lê Thị Th và Hồ Quang C tổ chức đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức “chơi bài Át tê”, loại bài sử dụng là loại 52 lá bài tây. Khi đang đánh bạc, đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, các bị cáo Q, Th và các đối tượng bị Công an xã SV, huyện Nông Sơn phát hiện, kiểm tra và bắt quả tang. Tại chiếu bạc, Công an thu giữ số tiền là 1.180.000 đồng (gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng; 10 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 13 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng và 12 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng), một cái mền và một bộ bài tây có 52 lá. Trong tổng số tiền dùng để đánh bạc và bị thu giữ, bị cáo Trịnh Q sử dụng số tiền 300.000 đồng để chơi bạc và thua 160.000 đồng; bị cáo Trần Ngọc Th sử dụng số tiền 200.000 đồng để chơi bạc, thắng được 420.000 đồng.

Các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra thể hiện: Ngày 18/01/2023, các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th bị Công an xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” bằng hình thức phạt tiền, số tiền phạt đối với các bị cáo lần lượt là 1.000.000 đồng và 1.250.000 đồng; các bị cáo đã chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào ngày 18/01/2023. Quá trình tranh tụng, các bị cáo thống nhất việc xử phạt, không có ý kiến gì.

Tại Cáo trạng số 04/CT - VKSNS ngày 23/5/2023, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam đã truy tố các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th về tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Qua tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, o, s, x khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Trịnh Q và áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Ngọc Th để xử phạt các bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ, mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng. Về xử lý vật chứng, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.260.000 đồng; truy thu của bị cáo Trịnh Q số tiền 140.000 đồng và của bà Lê Thị Th số tiền 50.000 đồng để nộp vào ngân sách nhà nước; tịch thu tiêu hủy 52 lá bài tây và 01 cái mền là công cụ mà các bị cáo và các đối tượng dùng để đánh bạc.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; bị cáo Trần Ngọc Th tỏ rõ sự ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Bị cáo Trịnh Q thừa nhận hành vi đánh bạc của mình là vi phạm pháp luật nhưng không thật sự hối cải về hành vi đó. Các bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án thống nhất với nội dung Cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Các bị cáo không có ý kiến bào chữa, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét tính chất hành vi phạm tội, điều kiện hoàn cảnh gia đình để giảm nhẹ mức hình phạt đối với các bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại hành vi, Quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố vụ án: Tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố là đúng quy định pháp luật và các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, tranh tụng tại phiên tòa là hợp pháp.

[2] Về Nội dung vụ án:

[2.1] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th thừa nhận và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Lời thừa nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra và tại phiên tòa; phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra, có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/01/2023, các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th bị Công an xã SV, huyện Nông Sơn xử phạt vi phạm hành chính với số tiền phạt đối với các bị cáo lần lượt là 1.000.000 đồng và 1.250.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép; các bị cáo đã thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào ngày 18/01/2023. Sau đó, vào ngày 23/02/2023, tại nhà của ông Phan Văn Thành (thôn PB, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam), các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th cùng các đối tượng: Phan Văn Thành, Dương C, Lê Thị Th và Hồ Quang C tổ chức đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức “chơi bài Át tê”, loại bài sử dụng là loại 52 lá bài tây và bị Công an xã SV, huyện Nông Sơn phát hiện, kiểm tra và bắt quả tang. Tại chiếu bạc, Công an thu giữ số tiền là 1.180.000 đồng. Bị cáo Trịnh Q sử dụng số tiền 300.000 đồng để chơi bạc và thua 160.000 đồng; bị cáo Trần Ngọc Th sử dụng số tiền 200.000 đồng để chơi bạc, thắng được 420.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng số số 04/CT - VKSNS ngày 23/5/2023 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo về hành vi phạm tội “đánh bạc” là có cơ sở pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, thì thấy:

Các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th thực hiện hành vi phạm tội khi đã đủ tuổi thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; có đủ nhận thức để làm chủ hành vi của mình. Các bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng hành vi đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức đều bị pháp luật nghiêm cấm và bị xử lý nếu vi phạm nhưng vẫn thực hiện với mong muốn có được tiền, tài sản từ các con bạc khác để sử dụng. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc không lớn nhưng hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm; hành vi đó, một mặt, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; mặt khác, tiềm ẩn nguy cơ phát tán tài sản, kinh tế gia đình và là điều kiện để có thể làm phát sinh những tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật khác. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân tốt; ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi phạm tội tương tự tại địa phương, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa bàn.

[2.3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì thấy:

Ngoài việc thực hiện hành vi phạm tội và bị truy tố trong lần này, các bị cáo chưa phạm tội lần nào khác. Hành vi của các bị cáo nguy hiểm nhưng gây nguy hại không lớn cho xã hội, số tiền thu giữ tại chiếu bạc và số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc không lớn. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để quyết định loại hình phạt và giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho cả hai bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đối với bị cáo Trịnh Q, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã là người đủ 70 tuổi; bị cáo có cha là ông Trịnh Kim Nhơn là Liệt sĩ, được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba. Do đó, cần áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm o, x khoản 1 Điều 51 và áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

[2.4] Xét nhân thân và các đặc điểm về lý lịch của bị cáo, thấy rằng:

Các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th có nhân thân tốt. Ngoài lần thực hiện hành vi phạm tội và bị truy tố này, các bị cáo chưa thực hiện hành vi phạm tội nào khác; bị cáo chấp hành pháp luật và thực hiện tốt các nghĩa vụ của công dân nơi cư trú.

Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các đặc điểm về nhân thân, lý lịch, tuổi đời của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo, với mức hình phạt phù hợp, mà không cần phải áp dụng các loại hình phạt khác nặng hơn cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo, phòng ngừa và ngăn chặn các bị cáo tiếp tục phạm tội; điều đó không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương trong thời điểm hiện nay.

[2.5] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn đã thu giữ số tiền 1.260.000 đồng, hiện đang tạm gởi tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Sơn. Đây là số tiền mà các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th cùng các đối tượng: Phan Văn Thành, Dương C, Lê Thị Th và Hồ Quang C dùng vào việc đánh bạc và có được từ hành vi phạm tội đánh bạc vào ngày 23/02/2023 nên cần tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Trịnh Q sử dụng số tiền 300.000 đồng để chơi bạc và thua hết 160.000 đồng; số tiền còn lại là 140.000 đồng, bị cáo Q chưa giao nộp nên cần truy thu từ bị cáo Q để nộp vào ngân sách nhà nước.

Đối với 52 lá bài tây và một cái mền. Xét thấy, đây là công cụ mà các bị cáo và các đối tượng sử dụng để phục vụ cho việc đánh bạc nên cần tịch thu, tiêu hủy. [2.6] Các vấn đề khác:

Trong vụ án này, các đối tượng Phan Văn Thành, Dương C, Lê Thị Th và Hồ Quang C có tham gia thực hiện hành vi đánh bạc cùng với các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th nhưng hành vi của họ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tách hồ sơ và đề nghị Công an huyện Nông Sơn xem xét, xử phạt vi phạm hành chính đối với họ và cùng với đó, xem xét, xử lý số tiền 50.000 đồng mà bà Lê Thị Th dùng vào việc đánh bạc vào ngày 23/02/2023 là phù hợp nên Hội đồng xét xử không truy xét.

[2.7] Về án phí, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th đã phạm tội “đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, o, s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Áp dụng Điều 35, Điều 50, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; các Điều 260, 299, 326 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Q hình phạt tiền, mức hình phạt: 15 .0000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Áp dụng Điều 35, Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; các Điều 260, 299, 326 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Trần Ngọc Th hình phạt tiền, mức hình phạt:

20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.260.000 đồng, hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam quản lý, theo Ủy nhiệm chi lập ngày 29/5/2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Truy thu của bị cáo Trịnh Q số tiền 140.000 đồng (một trăm bốn mươi nghìn đồng) để nộp vào ngân sách nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy 52 (năm mươi hai) lá bài tây và 01 cái mền hiện đang được niêm phong, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Trịnh Q, Trần Ngọc Th, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nông Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về