Bản án về tội đánh bạc số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 18/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 01 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST – HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đặng Tham M, sinh năm 1991, tại huyện S, Bình Định.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Ngọc P và bà Trương Thị H ; Có vợ là Lê Thị T và 03 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 29/9/2021 đến ngày 08/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

2. Phan Minh C , sinh năm 2000, tại huyện S, Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con Phan Minh C và bà Ngô Thị Bạch H ; Bị cáo chưa có vợ. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị bắt phạm tội quả tang ngày 29/9/2021, tạm giữ ngày 29/9/2021 đến ngày 08/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

3. Đào Duy T (C), sinh năm 1994, tại huyện S, Bình Định.

Nơi cư trú: Thôn K, xã P, huyện S, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đào Ngọc H và bà Tạ Thị H ; Có vợ là Phạm Thị Mỹ D và 01 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị bắt phạm tội quả tang ngày 29/9/2021, tạm giữ ngày 29/9/2021 đến ngày 08/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

4. Trần Đình T , sinh năm 1993, tại huyện P, Gia Lai.

Nơi cư trú: Thôn P, xã B, huyện P, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đình C và bà La Thị Thu H ; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị bắt phạm tội quả tang ngày 29/9/2021, tạm giữ ngày 29/9/2021 đến ngày 08/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

5. Phan Anh M , sinh năm 1991, tại huyện P, Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan B và bà La Thị Thu H ; Có vợ là Huỳnh Thị Diễm T và 02 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị bắt phạm tội quả tang ngày 29/9/2021, tạm giữ ngày 29/9/2021 đến ngày 08/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

6. Nguyễn Ngọc A , sinh năm 1994, tại huyện S, Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ích K (Chết) và bà Phạm Thị L ; Có vợ là Lê Thị Hồng P và 01 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Bản án số 58/2012/HSST ngày 07/9/2012 của TAND huyện S, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích. Bị tạm giữ ngày 29/9/2021 đến ngày 08/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

7. Bùi Thị Như Y, sinh năm 1991, tại huyện S, Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn C và bà Hồ Thị L ; Có chồng là Nguyễn Văn H và 01 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1968 . Vắng mặt. Nơi cư trú: Thôn K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

2. Ông Hoàng Quốc P (N), sinh năm 1983. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

3. Bà Lê Thị P, sinh năm 1983. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

4. Bà Đinh Thị Thùy N, sinh năm 1982. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

5. Ông Nguyễn Văn S , sinh năm 1975. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

6. Chị Lê Thị B , sinh năm 1991. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

7. Chị Diệp Thị Thái T, sinh năm 1996. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

8. Bà Nguyễn Kim A (T), sinh năm 1973. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

9. Chị Phạm Thị Mỹ D , sinh năm 2000. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 29/9/2021, Nguyễn Văn V đang uống nước tại quán cà phê N của chị Đinh Thị Thùy N thuộc tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S cùng với Hoàng Quốc P (N) và Lê Thị P. Lúc này, chị N vì có công việc nên đã đi khỏi quán, chị N có nhờ chị Lê Thị B đến quán để giúp pha chế nước, cà phê cho khách. Khi cả 03 đang ngồi uống nước thì V rủ P và P “xóc hạt dưa” được thua bằng tiền, mục đích để trả tiền nước uống . V lấy 01 phin cà phê trong rổ đựng để trước sân và nhặt 04 vỏ hạt dưa dưới sân ở quán cà phê rồi cầm cái “xóc hạt dưa” để P và P đặt tiền. Vệ sử dụng số tiền 30.000 đồng để cầm cái xóc hạt dưa, P sử dụng 20.000 đồng, P sử dụng 10.000 đồng thì P và P thua, V thắng được 30.000 đồng và sử dụng số tiền đó để trả tiền nước. Sau đó, P và P nghỉ rồi đi về. Ngay lúc này, Đặng Tham M và Nguyễn Ngọc A đang ngồi uống nước tại quán, thấy V cầm cái “xóc hạt dưa” thì M sử dụng 40.000 đồng và Ngọc A sử dụng 20.000 đồng để đặt tiền, mục đích để trả tiền nước, mỗi ván M đặt 20.000 đồng còn Ngọc A đặt mỗi ván 10.000 đồng. Tham gia đánh 02 ván thì M vẫn còn 40.000 đồng và Ngọc A vẫn còn 20.000 đồng. Lúc này, V, M và Ngọc A nghỉ không đánh bạc nữa, V để lại phin cà phê và vỏ hạt dưa trên bàn để trả lại cho quán rồi đi về, còn M và Ngọc A ngồi lại quán để uống nước.

Khoảng 15 phút sau, thấy nhiều người đến quán uống nước, vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân, Đặng Tham M nảy sinh ý định cầm cái đánh bạc nên tự lấy 01 phin cà phê và 04 vỏ hạt dưa mà Nguyễn Văn V để lại trên bàn rồi để 04 vỏ hạt dưa vào trong phin cà phê và cầm cái xóc hạt dưa. Người cầm cái xóc và người chơi chọn một trong hai bên chẵn, lẻ để đặt tiền vào. Số tiền đặt từ 10.000đồng đến 500.000đồng. Sau khi người chơi đặt bên chẵn hay lẻ xong, người cầm cái sẽ mở nắp phin cà phê ra, nếu 02 vỏ hạt dưa sấp, 02 vỏ hạt dưa ngửa hoặc 04 vỏ hạt dưa sấp, 04 vỏ hạt dưa ngửa thì bên chẵn thắng, ngược lại 01 vỏ hạt dưa sấp, 03 vỏ hạt dưa ngửa hoặc 01 vỏ hạt dưa ngửa, 03 vỏ hạt dưa sấp thì bên lẻ thắng, số tiền thắng tương ứng với số tiền đặt cược. Lúc này, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M, Bùi Thị Như Y đang ngồi uống nước tại quán thấy M cầm cái xóc hạt dưa thì cùng đến tham gia đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ 10 phút cùng ngày, Phan Minh C đến quán cà phê để uống cà phê và cùng tham gia và thay M cầm cái xóc hạt dưa để mọi người đặt tiền. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 7.850.000 đồng; 01 phin cà phê, 04 vỏ hạt dưa; 01 bàn (có chiều cao 53 cm, màu trắng, hình chữ nhật kích thước (100 x 50)cm); 05 ghế nhựa màu đỏ trắng, kích thước (70 x 53 x 34)cm; 01 ghế nhựa màu xanh trắng, kích thước (70 x 53 x 34)cm. Thu giữ: 3.750.000 đồng, 01 Iphone 12 Promax màu xanh và 01 sim số 0935.886.X trên người Phan Minh C; số tiền 73.000 đồng, 01 Iphone 12 màu đỏ và sim số 0945.456.X trên người Trần Đình T ; số tiền 1.570.000 đồng, 01 Iphone XR và sim số 0905.351.275 trên người Phan Anh M . Thu giữ tại khu vực hiện trường 08 xe mô tô biển kiểm soát: 81P1 – X; 93T1 – X; 81P1 – X; 84F6 – X; 81S1 – X; 81P1 – X; 81P1 – X; 81B2 – X. Lúc này, do hoảng sợ nên M và Ngọc A đã bỏ chạy khỏi hiện trường.

Đến 17 giờ cùng ngày, Nguyễn Ngọc A đến Công an huyện Chư Sê đầu thú và giao nộp số tiền 200.000 đồng sử dụng để đánh bạc cùng M, C, T, T, M, Y và 20.000 đồng là số tiền Ngọc A sử dụng để đánh bạc cùng V và M. Đến 20 giờ 20 phút cùng ngày, Đặng Tham M đến Công an huyện Chư Sê đầu thú, giao nộp số tiền 40.000 đồng là số tiền sử dụng để đánh bạc với V và Ngọc A. Cùng ngày 29/9/2021, Nguyễn Văn V giao nộp số tiền 30.000 đồng, Hoàng Quốc P giao nộp số tiền 20.000 đồng và Lê Thị P giao nộp số tiền 10.000 đồng là số tiền sử dụng để đánh bạc.

Quá trình điều tra xác định:

Số tiền Đặng Tham M, Phan Minh C, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M, Bùi Thị Như Y sử dụng để đánh bạc bằng hình thức “xóc hạt dưa” được thua bằng tiền vào ngày 29/9/2021 là 9.620.000 đồng, cụ thể như sau:

Đặng Tham M sử dụng 1.900.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, M thua hết 1.900.000 đồng.

Phan Minh C sử dụng 1.500.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, C thắng 790.000 đồng, tổng cộng 2.290.000 đồng.

Nguyễn Ngọc A sử dụng 400.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, Ngọc A thua 200.000 đồng, còn lại 200.000 đồng.

Đào Duy T sử dụng 2.635.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, T thua 75.000 đồng, còn lại 2.560.000 đồng.

Trần Đình T sử dụng 550.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, T thua hết 550.000 đồng.

Phan Anh M sử dụng 2.300.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, M thắng 2.270.000 đồng, tổng cộng là 4.570.000 đồng (trong đó thu trên chiếu bạc là 3.000.000 đồng, thu trên người Phan Anh M là 1.570.000 đồng).

Bùi Thị Như Y sử dụng 335.000 đồng, đến lúc bị bắt quả tang, Y thua hết 335.000 đồng.

Số tiền mà Nguyễn Văn V, Hoàng Quốc P, Lê Thị P, Đặng Tham M và Nguyễn Ngọc Asử dụng để xóc hạt dưa được thua bằng tiền với mục đích giải trí, trả tiền nước uống vào ngày 29/9/2021 là 120.000 đồng. Trong đó: Nguyễn Văn V sử dụng 30.000 đồng, Hoàng Quốc P sử dụng 20.000 đồng, Lê Thị P sử dụng 10.000 đồng, Đặng Tham M sử dụng 40.000 đồng và Nguyễn Ngọc A sử dụng 20.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 02/CT – VKS, ngày 21/12/2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo Đặng Tham M, Phan Minh C, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M và Bùi Thị Như Y về tội:

“Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Về hình phạt chính:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Tham M từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng.

Xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Xử phạt bị cáo Phan Anh M từ 12 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Minh C từ 16 đến 20 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 32 đến 40 tháng.

Xử phạt bị cáo Đào Duy T từ 12 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58;

Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Như Y từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

-Về Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự: Xử phạt các Bị cáo Đặng Tham M, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Phan Anh M mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng.

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền: 9.620.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy đối với: 01 phin cà phê; 04 vỏ hạt dưa .

- Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Vào ngày 29/9/2021, Đặng Tham M, Phan Minh C, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M, Bùi Thị Như Y đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức xóc hạt dưa được thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 9.620.000 đồng tại quán cà phê N thuộc tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Vì vậy, cần phải được xét xử một cách nghiêm minh tương xứng với vai trò, vị trí, mức độ phạm tội của từng bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[3]. Về vai trò và mức độ tham gia của từng bị cáo:

Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn, các bị cáo sử dụng các số tiền khác nhau để đánh bạc lần lượt như sau: Đặng Tham M sử dụng 1.900.000 đồng, Phan Minh C sử dụng 1.500.000 đồng, Nguyễn Ngọc A sử dụng 400.000 đồng, Đào Duy T sử dụng 2.635.000 đồng, Trần Đình T sử dụng 550.000 đồng, Phan Anh M sử dụng 2.300.000 đồng, Bùi Thị Như Y sử dụng 335.000 đồng để đánh bạc.

Đặng Tham M là người khởi xướng đánh bạc dưới hình thức xóc hạt dưa được thua bằng tiền, là người cầm cái xóc hạt dưa, trực tiếp thực hiện tội phạm. Phan Minh C là người cầm cái xóc hạt dưa, trực tiếp thực hiện tội phạm. Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M, Bùi Thị Như Y là người giữ vai trò đồng phạm, khi thấy Đặng Tham M lấy phin cà phê và vỏ hạt dưa để đánh bạc dưới hình thức xóc hạt dưa được thua bằng tiền thì tất cả đều tham gia với vai trò là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội.

[4].Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Đặng Tham M được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, người phạm tội đầu thú, cha của bị cáo là người có công với cách mạng, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Phan Minh C được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Ngọc A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, người phạm tội đầu thú, theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đào Duy T được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Đình T được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, ông bà ngoại của bị cáo là người có công với cách mạng, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Phan Anh M được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, ông bà ngoại của bị cáo là người có công với cách mạng, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Bùi Thị Như Y được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội là phụ nữ có thai”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt:

Các bị cáo Đặng Tham M, Phan Minh C, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M đều chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Ngọc A tuy đã từng bị kết án nhưng đã được xóa án tích một thời gian dài, tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Xét thấy, các bị cáo đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt tù cho các bị cáo được hưởng án treo, giao các bị cáo về cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, cho các bị cáo một cơ hội để tự cải tạo trở sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Riêng bị cáo Bùi Thị Như Y có vai trò thứ yếu và có 3 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên hội đồng xét xử không dụng hình phạt tù mà áp dụng hình phạt nhẹ hơn các bị cáo khác là hình phạt tiền.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo phạm tội vì mục đích vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo Phan Minh C đang là sinh viên sống phụ thuộc vào gia đình và không có tài sản riêng, bị cáo Trần Đình T thuộc diện hộ nghèo và bị cáo Bùi Thị Như Y đã được áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền nên được miễn chấp hành hình phạt bổ sung.

[7]. Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Đối với hành vi xóc hạt dưa với tổng số tiền 120.000 đồng của Nguyễn Văn V, Hoàng Quốc P, Lê Thị P, Đặng Tham M và Nguyễn Ngọc A vì mục đích giải trí, trả tiền nước uống nên không cấu thành tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Văn V, Hoàng Quốc P, Lê Thị P, Đặng Tham M và Nguyễn Ngọc A bằng hình thức phạt tiền là có căn cứ.

Đối với bà Đinh Thị Thùy N và ông Nguyễn Văn S là chủ quán cà phê N và chị Lê Thị B là nhân viên của quán, nơi các bị cáo tham gia đánh bạc, bà N, ông S và chị B không biết các bị cáo đánh bạc dưới hình thức xóc hạt dưa được thua bằng tiền nên không cấu thành tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê không đề cập xử lý là phù hợp.

[8]. Về vật chứng:

Đối với 01 bàn (có chiều cao 53 cm, màu trắng, hình chữ nhật kích thước (100 x 50)cm); 05 ghế nhựa màu đỏ trắng, kích thước (70 x 53 x 34)cm; 01 ghế nhựa màu xanh trắng, kích thước (70 x 53 x 34)cm, là tài sản của bà Đinh Thị Thùy N và ông Nguyễn Văn S. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê đã trả lại các tài sản trên cho bà N là phù hợp.

Đối với số tiền 3.750.000 đồng, 01 Iphone 12 Promax màu xanh và 01 sim số 0935.886.X là tài sản của Phan Minh C; số tiền 73.000 đồng, 01 Iphone 12 màu đỏ, sim số 0945.456.X là tài sản của Trần Đình T; 01 Iphone XR và sim số 0905.351.275 là tài sản của Phan Anh M. Các tài sản này, C, T, M không sử dụng để đánh bạc. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê đã trả lại cho Phan Minh C, Trần Đình T và Phan Anh M là đúng quy định.

Đối với số tiền 120.000 đồng là số tiền mà Nguyễn Văn V, Hoàng Quốc P, Lê Thị P, Đặng Tham M và Nguyễn Ngọc Asử dụng để đánh bạc. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê đã tịch thu, sung công quỹ nhà nước nên miễn xét.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 81P1 – X là tài sản của chị Phạm Thị Mỹ D; 01 xe mô tô biển kiểm soát 81P1 – X là tài sản của chị Diệp Thị Thái T; 01 xe mô tô biển kiểm soát 81S1 – X là tài sản của ông Nguyễn Văn S;

01 xe mô tô biển kiểm soát 81P1 – X là tài sản của bà Đinh Thị Thùy N; 01 xe mô tô biển kiểm soát 81B2 – X là tài sản của bà Nguyễn Kim A; những tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 93T1 – X là tài sản của Nguyễn Văn V; 01 xe mô tô biển kiểm soát 84F6 – X là tài sản của Hoàng Quốc P; 01 xe mô tô biển kiểm soát 81P1 – X là tài sản của Nguyễn Ngọc A; những tài sản trên, Nguyễn Văn V, Hoàng Quốc P và Nguyễn Ngọc A không sử dụng để đánh bạc. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê đã trả lại cho Phạm Thị Mỹ D, Diệp Thị Thái T, Nguyễn Văn S, Đinh Thị Thùy N, Nguyễn Kim A, Nguyễn Văn V, Hoàng Quốc P, Nguyễn Ngọc A là đúng quy định.

Đối với số tiền 9.620.000 đồng là vật chứng sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 phin cà phê, 04 vỏ hạt dưa mà các bị cáo sử dụng vào việc phạn tội là tài sản của bà Đinh Thị Thùy N. Tuy nhiên, bà N không có yêu cầu nhận lại tài sản, đây là vật không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Tham M, Phan Minh C, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Trần Đình T, Phan Anh M, Bùi Thị Như Y phạm tội: “Đánh bạc .

2. Về Hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Tham M 20 (hai mươi) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 (bốn mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Trần Đình T 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm .

Xử phạt bị cáo Phan Anh M 16 (mười sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32 (ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm .

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Minh C 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Đào Duy T (C) 16 (mười sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32 (ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm .

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Như Y 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Giao các bị cáo Đặng Tham M, Phan Minh C, Nguyễn Ngọc A, Phan Anh M cho Ủy ban nhân dân thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai; Giao bị cáo Đào Duy T cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện S, tỉnh Gia Lai; giao bị cáo Trần Đình T cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện P, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

3. Về hình phạt bổ sung:

Áp dụng khoản 2 Điều 35; khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt các bị cáo Đặng Tham M, Nguyễn Ngọc A, Đào Duy T, Phan Anh M mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 9.620.000 đồng (Chín triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hủy 01 phin cà phê, 04 vỏ hạt dưa.

(Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Sê, đặc điểm, số lượng, chủng loại theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2021 giữa Công an huyện Chư Sê và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Sê).

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án hoặc bản án được niên yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về