Bản án về tội đánh bạc (hình thức binh 9 cây) số 107/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 107/2021/HS-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 12 năm 2021, tại Hội trường TAND thị xã Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 120/2021/HSST, ngày 10/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2021/QĐXXST-HS, ngày 22 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo sau:

Họ và tên: CAO THANH V – Sinh năm 1993 Nơi cư trú: Khối CS, phường ĐNB, thị xã Đ, tỉnh Q. Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không.

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí. Con ông Cao Thanh T và con bà Phan Thị T.

Bị cáo có vợ Trần Thị L và có 01 (một) con sinh năm 2020.

Tiền sự: Quyết định số 45/QĐ-XPHC ngày 28/4/2021 bị Công an phường Điện Ngọc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, phạt số tiền 1.500.000đ, nộp phạt ngày 21/6/2021.

Tiền án: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú". (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan đến vụ án :

1. Ông Nguyễn Hữu Nh - Sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Khối VT, phường ĐN, thị xã Đ, Q.

2. Ông Lê Văn Nh – Sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Khối CS, phường ĐNB, thị xã Đ, Q.

3. Ông Phạm Ngọc S – Sinh năm 1992 (có mặt) Địa chỉ: Thôn PC1, xã QM, huyện Quế Sơn, Q.

4. Ông Nguyễn Hữu A – Sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: Khối VT, phường ĐN, thị xã Đ, tỉnh Q

5. Ông Phạm Ngọc Ph– Sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: Khối TH, phường ĐN, thị xã Đ, tỉnh Q

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 17/6/2021, Cao Thanh V đến quán cà phê H do ông Nguyễn Hữu Nh làm chủ để uống nước thì gặp Lê Văn Nh, Phạm Ngọc Ph, Phạm Ngọc S nên rủ nhau chơi đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức “Binh 9 cây”. V mua 02 (hai) bộ bài tây 52 lá để chơi, cả nhóm quy ước cách chơi như sau: Mỗi ván bài mỗi người chơi đặt cược 10.000đ; Mỗi người chơi sẽ được phát 09 (chín) cây bài và tự sắp xếp thành ba chi, mỗi chi 03 cây bài sao cho chi ở trên có điểm nhỏ nhất, chi ở dưới có điểm lớn nhất, ở giữa là những cây còn lại; Sau đó người chơi sẽ so chi với nhau, cù 03 cây bài giống nhau là lớn nhất, tiếp đến là 03 cây tiên J, Q, K, sau cùng là tính điểm từng chi. Nếu ai thắng được trên 02 chi của tất cả những người cùng chơi thì thắng số tiền mà những người chơi đã đặt cược. Cả nhóm chơi được 4-5 ván thì có Nguyễn Hữu A đến chơi cùng. Cả nhóm chơi thêm được khoảng 6-7 ván thì bị Công an phường Điện Ngọc đến lập biên bản, tạm giữ trên chiếu bạc 02 bộ bài tây 52 lá và số tiền 40.000đ, tạm giữ trên người các đối tượng tổng số tiền 8.930.000đ. Trong quá trình tham gia đánh bạc thể hiện như sau:

+ V mang theo số tiền 1.920.000đ, sử dụng 420.000đ để đánh bạc, quá trình đánh bạc thắng 90.000đ, khi bắt quả tang thu trên chiếu bạc tiền đặc cược của V 10.000đ, tạm giữ trên người 2.000.000đ.

+ Nh mang theo số tiền 4.100.000đ, sử dụng 100.000đ để đánh bạc, quá trình đánh bạc thắng 100.000đ, thu trên chiếu bạc tiền đặc cược của Nh 10.000đ, tạm giữ trên người 4.190.000đ.

+ S mang theo số tiền 200.000đ, sử dụng 200.000đ để đánh bạc, quá trình đánh bạc thua 20.000đ, ván bị bắt quả tang S chưa đặc cược, tạm giữ trên người 180.000đ.

+ Ph mang theo số tiền 2.460.000, sử dụng 460.000đ để đánh bạc, quá trình đánh bạc thua 150.000đ, thu trên chiếu bạc tiền đặc cược của Ph 10.000đ, tạm giữ trên người 2.300.000đ.

+ A mang theo số tiền 290.000, sử dụng 290.000đ để đánh bạc, quá trình đánh bạc thua 20.000đ, thu trên chiếu bạc tiền đặc cược của A 10.000đ, tạm giữ trên người 260.000đ.

Như vậy tổng số tiền bị cáo V cùng Nh, S, Ph và A dùng để đánh bạc 1.470.000đ.

Tại Bản cáo trạng số: 104/CT-VKS, ngày 09/11/2021 VKSND thị xã Đ đã truy tố bị cáo Cao Thanh V về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thị xã Đ giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo V phạm tội “Đánh bạc”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo V số tiền từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, VKSND thị xã Đ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 28/4/2021, Cao Thanh V bị Công an phường Điện Ngọc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, chưa hết thời hạn xử phạt vi phạm hành chính, nhưng đến hồi 08 giờ 30 phút ngày 17/6/2021 V cùng Lê Văn Nh, Phạm Ngọc Ph, Phạm Ngọc S và Nguyễn Hữu A đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức “Binh 9 cây” với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 1.470.000 đồng.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người liên quan, phù hợp với biên bản ghi nhận sự việc do Công an phường Điện Ngọc lập vào hồi 9 giờ 30 phút ngày 17/6/2021 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, đồng thời qua tranh luận bị cáo đồng ý với lời luận tội đề nghị kết tội của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Do đó quyết định truy tố của VKSND thị xã Đ và lời luận tội đề nghị kết tội của Kiểm sát viên trong phần tranh luận đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật và được HĐXX chấp nhận.

HĐXX phân tích hành vi, tính chất tác hại và hậu quả vụ án: Bị cáo V là người đã có vợ, con, nhưng không lo làm ăn lương thiện, chỉ vì động cơ tư lợi và mục đích thu lợi bất chính nhằm tước đoạt tiền bạc của nhau nên đã dẫn bị cáo đi vào con đường phạm tội. Ngày 28/4/2021 bị Công an phường Điện Ngọc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, đến ngày 17/6/2021 bị cáo V tiếp tục cùng S, A, Nh, Ph thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức “Binh 9 cây” với số tiền dùng đánh bạc 1.470.000 đồng.

Hành vi trên của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm mất lòng tin trong quần chúng nhân dân. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo cùng các đối tượng khác đã sát phạt lẫn nhau nhằm tướt đoạt tiền bạc của nhau, để thu lợi bất chính. Do đó có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo V phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, sau khi vụ án phát hiện bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo V không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, việc không xử phạt tù đối với bị cáo không gây nguy hại cho xã hội. Do đó chỉ cần xử phạt tiền đối với bị cáo cũng đảm bảo tính răn đe và giáo dục.

[4] Đối với hành vi đánh bạc của S, A, Nh, Ph với số tiền 1.470.000đ chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ cho Công an thị xã Đ ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc là đúng pháp luật.

Đối với ông Nguyễn Hữu Nh đã có hành vi bán 02 bộ bài tây 52 lá và để các đối tượng đánh bạc tại quán cà phê do mình làm chủ. Tuy nhiên quá trình điều tra xác định ông Nh không biết các đối tượng mua bài để đánh bạc ăn tiền và cũng không thu tiền xâu nên cơ quan CSĐT không xử lý.

[5] Xét về vật chứng:

+ Tạm giữ 02 bộ bài tây 52 lá đây là công cụ phạm tội cần phải tịch thu, tiêu hủy +Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền dùng đánh bạc tổng cộng 1.470.000đ gửi tại tài khoản số 3949.0.90xxxx của Công an thị xã Đ tại Kho Bạc Nhà nước thị xã Đ gồm: Số tiền 40.000 đồng thu trên chiếu bạc và Số tiền 1.430.000 đồng thu trên người của các đối tượng dùng để đánh bạc; trong đó 300.000 đồng của Ph, 190.000 đồng của Nh, 260.000 đồng của A, 180.000 đồng của S và 500.000 đồng của V.

+Tạm giữ số tiền 7.500.000 đồng trên người của các đối tượng; trong đó 2.000.000 đồng của Ph, 4.000.000 đồng của Nh và 1.500.000 đồng của V. Quá trình điều tra xác định các đối tượng không sử dụng số tiền này vào mục đích đánh bạc, cơ quan CSĐT Công an thị xã Đ đã trao trả cho chủ sở hữu;

+Tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A50S màu xanh có gắn sim số 0762.780.xxx, 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng có gắn sim số 0935.169.xxx, 01 điện thoại Vio màu đen, 01 điện thoại màn hình cảm ứng màu đen, 01 điện thoại hiệu SamSung màu xanh có gắn sim số 0935.518.xxx và 0937.315.xxx. Quá trình điều tra xác định các đối tượng không sử dụng các điện thoại trên vào mục đích đánh bạc, hiện các vật chứng này đã được Cơ quan CSĐT Công an thị xã Đ trả cho chủ sở hữu.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Phí và lệ phí, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Bị cáo V phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Thanh V phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, i khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Xử ph ạt Bị cáo Cao Thanh V số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố Tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.470.000 đồng (một triệu, bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) tại tài khoản số 3949.0.90xxxx của Công an thị xã Đ tại Kho Bạc Nhà nước thị xã Đ.

Tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) bộ bài Tây 52 lá.

(vật chứng hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đ đang tạm giữ tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/11/2021).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Phí và lệ phí, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Cao Thanh V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo và người tham gia tố tụng khác có quyền làm đơn kháng cáo gởi lên TAND tỉnh Q để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc (hình thức binh 9 cây) số 107/2021/HS-ST

Số hiệu:107/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Bị cáo Cao Thanh V bị kết án về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Vào ngày 17/6/2021, V cùng một số người khác đã đánh bạc dưới hình thức "Binh 9 cây" với tổng số tiền 1.470.000 đồng. Hành vi này đã xâm phạm đến trật tự công cộng và an toàn xã hội.

Tòa án nhận định V phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của V đã được chứng minh đầy đủ. V không có tình tiết tăng nặng, nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ như phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Với số tiền 1.470.000 đồng, hành vi đánh bạc của các đối tượng khác chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ để xử phạt hành chính. Về vật chứng, Tòa án quyết định tịch thu, tiêu hủy 02 bộ bài Tây 52 lá và tịch thu số tiền 1.470.000 đồng dùng để đánh bạc.

Tòa án tuyên phạt bị cáo Cao Thanh V 30.000.000 đồng tiền phạt và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.