Bản án về tội đánh bạc (đá gà độ) số 182/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 182/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 174/2023/HSST, ngày 12 tháng 10 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:869/2023/QĐXXST-HS, ngày 31 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: CHÂU T P; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 01 tháng 7 năm 1978; - Nơi sinh: Cần Thơ - Nơi ĐKTT: số F, khu vực 2, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 5/12; - nghiệp ề nghiệp : Buôn bán;

- Họ và tên cha: Châu Văn P, sinh năm 1940;

- Họ và tên mẹ: Trương Thị T, sinh năm 1949;

- Anh, chị em ruột: Có 08 người;

- Vợ: Nguyễn Thị Thu T1, sinh năm 1977;

- Con có 02 người cùng sinh năm 2003;

- Tiền sự, tiền sự: Không;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú;

2. Họ và tên: NGUYỄN VĂN T; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 05 tháng 11 năm 1991; - Nơi sinh: Sóc Trăng - Nơi ĐKTT: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 11/12; - nghiệp ề nghiệp : Làm thuê;

- Họ và tên cha: Nguyễn Văn N, sinh năm 1971 ;

- Họ và tên mẹ: Lê Thị H, sinh năm 1969 ;

- Anh, chị em ruột: có 01 người;

- Vợ: Lý Ngân T2, sinh năm 2000;

- Tiền sự, tiền sự: Không;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú;

3. Họ và tên: LA XUÂN G; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 27 tháng 9 năm 1984; - Nơi sinh: Cần Thơ - Nơi ĐKTT: số F, Chung cư T, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 7/12; - nghiệp ề nghiệp : Làm thuê;

- Họ và tên cha: La Xuân P1 (chết);

- Họ và tên mẹ: Hồ Ngọc L, sinh năm 1945;

- Anh, chị em ruột: 03 người;

- Sống chung như vợ chồng; Nguyễn Thị Kim P2, sinh năm 1990;

- Con có 02 người, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2011;

- Tiền án, tiền sự: Không;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

4. Họ và tên: LA MINH C; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1982; - Nơi sinh: Cần Thơ - Nơi ĐKTT: số A, khu vực 1, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 9/12; - nghiệp ề nghiệp : Làm thuê;

- Họ và tên cha: La Ngọc C, sinh năm 1946;

- Họ và tên mẹ: Lê Thị D, sinh năm 1948;

- Anh, chị em ruột: 06 người;

- Vợ: La Tuyết N1, sinh năm 1982;

- Con có 02 người, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2009;

- Tiền án, tiền sự: Chưa;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

5. Họ và tên: LÝ CHÍ T; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 08 tháng 02 năm 1987; - Nơi sinh: Cần Thơ - Nơi ĐKTT: số F, đường H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Hoa; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 11/12; - nghiệp ề nghiệp : Làm thuê;

- Họ và tên cha: Lý Tiền D1, sinh năm 1962;

- Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Thanh H1, sinh năm 1964;

- Chị em ruột có 02 người, sinh năm 1985 và 1993;

- Vợ: Lê Ngọc D2, sinh năm 1990 (đã ly hôn);

- Con có 01 người, lớn sinh năm 2008;

- Tiền án, tiền sự: Chưa;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

6. Họ và tên: CHÂU THẾ T; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 30 tháng 12 năm 1977; - Nơi sinh: Cần Thơ - Nơi ĐKTT: số F, khu vực 2, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 5/12; - nghiệp ề nghiệp : Làm thuê;

- Họ và tên cha: Châu Văn P, sinh năm 1940;

- Họ và tên mẹ: Trương Thị T, sinh năm 1949;

- A, chị, em ruột: Có 08 người;

- Vợ: Nguyễn Thị D3, sinh năm 1978 - Con có 02 người, lớn sinh năm 2010, và 2013;

- Tiền án, tiền sự: Chưa;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

7. Họ và tên: PHAN NGỌC H; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác:

- Sinh ngày 10 tháng 12 năm 1989; - Nơi sinh: Cần Thơ - Nơi ĐKTT: số F, đường T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 12/12; - nghiệp ề nghiệp : Kinh doanh;

- Họ và tên cha: Phan Văn L1, sinh năm 1960;

- Họ và tên mẹ: Đặng Thị S, sinh năm 1955;

- A, chị, em ruột: 01;

- Vợ: Huỳnh Kim Q, sinh năm 1986;

- Con có 03 người, lớn sinh năm 2012, và nhỏ sinh năm 2022;

- Tiền án, tiền sự: Chưa;

- Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Người có quyền lợi, nghiệp ĩa vụ liên quan: Bà Trương Thị T3, sinh năm 1978 Địa chỉ: 2, M, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.( Xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06/01/2023, Nguyễn Văn T4 điện thoại cho La Xuân G nói có con gà 3,6kg, nhờ G tìm người đá gà thắng thua bằng tiền. G đồng ý và điện thoại cho Châu T P3 thì P3 đồng ý đá gà và nói G đem gà đến bài đất trống trước nhà số F, khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ để đá gà thắng thua bằng tiền.

Khi đến điểm hẹn đề đá gà, lúc này nhóm của Nguyễn Văn T4 gồm có: T4, La Xuân G, Lý Chí T5, Phan Ngọc H2 và La Minh C1 mang theo 01 con gà đều màu đỏ; phía Châu T P3 là gà màu xám. P3 đưa ra mức cược trận gà là 7.000.000 đồng, nhóm của T4 thống nhất hùn số tiền 7.000.000 đồng để cược theo mức do P3 đưa ra, cụ thể T4 hùn 2.000.000 đồng, G 1.000.000 đồng, T5 1.000.000 đồng, H2 1.000.000 đồng và C1 2.000.000 đồng. Châu T P3 nhờ Châu Thế T6 ôm gà cho P3 băng cựa, cân gà và làm T tài phân xử thắng thua và thu tiền sân với số tiền 200.000 đồng; nhóm của T4 lúc này có thêm 01 đối tượng ôm gà cho T4 băng cựa, cân gà và thả gà. Do gà đều màu đỏ bên nhóm T4 nặng 3.6kg, gà xám của P3 nặng 3.4kg nên thống nhất lệ cược 01 ăn 09 (nếu gà nhóm T4 thắng thì chỉ thắng được 6.300.000 đồng, nếu thua thì thua 7.000.000 đồng). Châu Thế T6 làm T tài và ra hiệu cho P3 và T4 thả gà, trận gà đang diễn ra chưa có kết quả thắng thua thì bị lực lượng Công an phát hiện, Nguyễn Văn T4 cùng đối tượng giúp T4 ôm gà, băng cựa chạy thoát. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N đã ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị cáo T4, tách vụ án hình sự, đồng thời truy nã, đến ngày 10/8/2023, bị cáo Nguyễn Văn T4 ra đầu thú tại Công an quận N ( bút lục: 198-221, 309-332; 355-358);

Vật chứng thu giữ: 02 con gà trống; 02 cặp cựa gà bằng kim loại; 08 điện thoại di động; 04 xe mô tô các loại; Tiền Việt Nam: 40.000.000 đồng (bút lục 01-02, 17-18).

Quá trình điều tra, bị cáo Châu T P3 thừa nhận tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà thắng thua bằng tiền với Nguyễn Văn T4, La Xuân G, La Minh C1, Lý Chí T5, Châu Thế T6 và Phan Ngọc H2 với số tiền cược là 7.000.000 đồng.

Các bị cáo Nguyễn Văn T4, La Xuân G, Phan Ngọc H2, La Minh C1, Lý Chí T5, cũng khai nhận cùng góp số tiền 7.000.000 đồng với bị cáo Nguyễn Văn T4 để cá cược đá trận gà với phía bị cáo Châu T P3. Bị cáo Châu Thế T6 thừa nhận có tham gia giúp ôm gà cho anh ruột của mình là bị cáo Châu T P3 băng cựa, cân gà và làm T tài của trận gà (bút lục: 182-197);

Đối với đối tượng ôm gà cho bị cáo Nguyễn Văn T4, bị cáo khi chỉ biết tên là B, bán gà đều màu đỏ cho bị cáo đá gà ăn thua bằng tiền ngày 06/01/2023. Khi bị lực lượng Công an truy đuổi, B cũng bỏ chạy, bị cáo không biết nhân thân của B nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý đối tượng B theo quy định.

Ngoài các bị cáo tham gia cá cược, Cơ quan điều tra còn phát hiện Huỳnh Đắc N2 có mặt tại hiện trường; tuy nhiên, qua điều tra N2 không tham gia cá cược nên Cơ quan điều tra chuyển xử lý hành chính Huỳnh Đắc N2 về hành vi tụ tập gây mất trật tự cộng cộng ở khu dân cư, theo quy định tại điểm a khoản 1, Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ. Đồng thời, trả lại cho N2 số tiền 12.000.000 đồng; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy ZFord 35G, màu vàng đen và 01 điện thoại di động Nokia 105, màu đen (bút lục: 359-360);

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N đã ban hành quyết định xử lý vật chứng tịch thu tiêu hủy 02 con gà trống và 04 cựa băng kim loại. Trả lại cho bị cáo La Xuân G: 01 xe mô tô biển số 65H7-24xx; trả cho bị cáo Lý Chí T5 01 xe mô tô biển số 65B 1-771.xx; trả cho bị cáo La Minh C1: 01 xe mô tô biển số 65B2-484.xx, qua xác minh là tài sản hợp pháp của C1, không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng, trả lại cho bị cáo C1 (bút lục: 361-368);

Riêng xe mô tô biển số 65H1-331.xx thu giữ do bị can Nguyễn Văn T4 bỏ lại sân gà, Cơ quan điều tra đã xác minh xe mô tô trên thuộc sở hữu của bà Trương Thị T3 (mẹ vợ của T4).

Tại bản cáo trạng số: 198/CT-VKS ngày 10 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố Châu T P3, Nguyễn Văn T4, La Xuân G, La Minh C1, Lý Chí T5, Phan Ngọc H2 và Châu Thế T6 về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng, không bổ sung gì thêm, đồng thời phân tích tính chất, mức độ, tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghiệp ị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Châu T P3 phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T4 phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng; Xử phạt bị cáo La Minh C1 phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo La Xuân G phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo Lý Chí T5 phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo Phan Ngọc H2 phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng;

Xử phạt Châu Thế T6 phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 45.000.000 đồng;

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu NoKia 230, màu xanh đen của bị cáo Châu T P3;

- Trả lại cho bị cáo La Minh C1 01 điện thoại di động hiệu NoKia, màu hồng đen; 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y22S, màu xanh nhạt và 2.000.000 đồng; Đối với 2.000.000 đồng còn lại tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo La Xuân G 1.000.000 đồng; Đối với số tiền 1.000.000 đồng còn lại và 01 điện thoại di động hiệu NoKia 6300, màu xám đen tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại đề đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo Lý Chí T5 1.500.000 đồng; Đối với số tiền 1.000.000 đồng còn lại tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giừ số tiền được trả lại đề đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo Châu Thế T6 01 điện di động hiệu NoKia, màu xám đen và số tiền 3.000.000 đồng; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo Phan Ngọc H2 01 điện thoại di động NoKia màu đen và số tiền 15.500.000 đồng; Đối với tiền còn lại 1.000.000 đồng tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại đề đảm bảo thi hành án;

- Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo;

- Đối với xe mô tô biển số 65H1-331.xx, số máy JA36E06851xx, số khung RLHJA3656GY1488xx, chưa chứng minh được bà Trương Thị T3 biết bị cáo T4 mượn xe dùng vào việc phạm tội, nên trả lại xe cho bà T3;

NHẬN ĐỊNH TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra và truy tố đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai khiếu nại gì về thủ tục tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội:

Trong quá trình điều tra và qua xét hỏi tại phiên tòa đà xác định được: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06/01/2023, Nguyễn Văn T4 điện thoại cho La Xuân G nói có con gà 3,6kg, nhờ G tìm người đá gà thắng thua bàng tiền. G đồng ý và điện thoại cho Châu T P3 thì P3 đồng ý đá gà và nói G đem gà đến bài đất trống trước nhà số F, khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ để đá gà thắng thua bằng tiền.

Khi đến điểm hẹn, nhóm của Nguyễn Văn T4 gồm có: T4, La Xuân G, Lý Chí T5, Phan Ngọc H2 và La Minh C1 mang theo 01 con gà đều màu đỏ; phía Châu T P3 là gà màu xám. P3 đưa ra mức cá cược trận gà là 7.000.000 đồng, nhóm của T4 thống nhất hùn số tiền 7.000.000 đồng để cá cược theo mức do P3 đưa ra, cụ thể T4 hùn 2.000.000 đồng, G 1.000.000 đồng, T5 1.000.000 đồng, H2 1.000.000 đồng và C1 2.000.000 đồng. Châu T P3 nhờ Châu Thế T6 ôm gà cho P3 băng cựa, cân gà và làm T tài phân xử thắng thua và thu tiền sân với số tiền 200.000 đồng; nhóm của T4 lúc này có thêm 01 đối tượng ôm gà cho T4 băng cựa, cân gà và thả gà. Do gà đều màu đỏ bên nhóm T4 nặng 3.6kg, gà xám của P3 nặng 3.4kg nên thống nhất tỷ lệ cá cược 01 ăn 09 (nếu gà nhóm T4 thắng thì chỉ thắng được 6.300.000 đồng bao gồm tiền xác gà, nếu thua thì thua 7.000.000 đồng). Châu Thế T6 làm T tài và ra hiệu cho P3 và T4 thả gà, trận gà đang diễn ra chưa có kết quả thắng thua thì bị lực lượng Công an phát hiện. Xét thấy hành vi đánh bạc trái phép của các bị cáo Châu T P3, Nguyễn Văn T4, La Minh C1, Lý Chí T5, La Xuân G, Phan Ngọc H2, Châu Thế T6 với hình thức đá gà được ăn thua bằng tiền với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 7.000.000 đồng, nên đà đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, đã tạo tâm lý cho một bộ phận người dân lười lao động, kiếm tiền bất chính bằng hình thức cầu mai, làm suy kiệt kinh tế gia đình và đây cũng là mầm mống làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

Về vai trò, mức độ phạm tội và quyết định hình phạt đối với các bị cáo:

- Đối với bị cáo Châu T P3 là người tham gia tích cực khi được bị cáo G gọi điện thoại rủ đá gà ăn tiền, bị cáo đã đồng ý ngay và kêu đem gà vào gần nơi ở của bị cáo, đồng thời bị cáo cung cấp gà, băng keo, cựa để thực hiện hành vi đá gà ăn thua bàng tiền, bị cáo tham gia một bên với số tiền cá cược là 7.000.000 đồng, mặc dù cũng đã được xóa án tích, nhưng bản thân cũng đã từng phạm tội và đã 02 lần bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc với hình thức đá gà, nên hình phạt áp dụng đối với bị cáo phải cao hơn các bị cáo khác.

- Đối với bị cáo Nguyễn Văn T4 là người khởi xướng, rủ rê, bị cáo chủ động gọi điện thoại cho bị cáo La Xuân G thông báo có gà và kêu bị cáo G tìm người để đá gà ăn tiền. Bị cáo là đứng một bên dùng tiền của bị cáo và gom tiền của các bị cáo G, La Minh C1, Lý Chí T5, Phan Ngọc H2 để đánh bạc bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền với bị cáo P3. Do đó hình phạt áp dụng với bị cáo phải tương đương với bị cáo P3;

- Đối với các bị cáo La Minh C1, Lý Chí T5, La Xuân G, Phan Ngọc H2 khi biết được T4 với bị cáo P3 có hành vi đánh bạc dưới hình thức đá gà ăn tiền, các bị cáo cũng đã tích cực tham gia đánh bạc, mỗi bị cáo đà tham gia với số tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng dùng góp vào tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc chung, nên hình phạt đối với các bị cáo tương đương nhau.

- Đối với bị cáo Châu Thế T6 biết các bị cáo nêu trên tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà ăn tiền, bị cáo đã tham gia giúp sức ôm gà, băng keo, làm T tài thả gà, nên bị cáo cũng phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ mà bị cáo tham gia;

Tuy nhiên khi quyết định hành phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo phần nào như các bị cáo có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Có bị cáo không có tiền án, tiền sự, có bị cáo có tiền án, tiền sự nhưng tại thời điểm phạm tội đã được đương nhiên xóa án tích, tiền sự không còn; Đối với bị cáo Nguyễn Văn T4 có thêm tình tiết giảm nhẹ đầu thú; Do đó xét thấy không nhất thiết phải buộc bị cáo chấp hành phạt tù mà áp dụng hình phạt phạt tiền đối với các bị cáo ở mức tương xứng để nhằm răn đe giáo dục các bị cáo, cũng như để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội đề lao động giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

[3].Về xử lý vật chứng: Như đề nghiệp ị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đúng quy định của pháp luật;

[4].Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Châu T P3, Nguyễn Văn T4, La Minh Cl, La Xuân G, Lý Chí T5, Phan Ngọc H2 và Châu Thế T phạm tội “ Đánh bạc” Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử pht: Bị cáo Châu T P3 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T4 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử pht: Bị cáo La Minh C1 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử pht: Bị cáo La Xuân G 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử pht: Bị cáo Lý Chí T5 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử pht: Bị cáo Phan Ngọc H2 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- nghiệp ị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử pht: Bị cáo Châu Thế T6 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu) đồng; Buộc bị cáo nộp sung quỹ Nhà nước;

- Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo;

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu NoKia 230, màu xanh đen của bị cáo Châu T P3;

- Trả lại cho bị cáo La Minh C1 01 điện thoại di động hiệu NoKia, màu hồng đen; 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y22S, màu xanh nhạt và 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng); Đối với 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) còn lại tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo La Xuân G 1.000.000 đồng ( Một triệu đồng); Đối với số tiền 1.000.000 đồng ( Một triệu đồng) còn lại và 01 điện thoại di động hiệu NoKia 6300, màu xám đen tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo Lý Chí T5 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng); Đối với số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) còn lại tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo Châu Thế T6 01 điện di động hiệu NoKia, màu xám đen và số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng); Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo Phan Ngọc H2 01 điện thoại di động NoKia màu đen và số tiền 15.500.000 đồng ( Mười lăm triệu, năm trăm ngàn đồng); Đối với tiền còn lại 1.000.000 đồng ( Một triệu đồng) tịch thu sung quỹ Nhà nước; Tiếp tục tạm giữ số tiền được trả lại để đảm bảo thi hành án;

(Tất cả các số tiền nêu trên nằm trong tổng số tiền 28.000.000 đồng ( Hai mươi tám triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0001346, ngày 08/8/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ) - Trả lại cho bà Trương Thị T3 01 xe mô tô biển số 65H1-331.xx, số máy JA36E06851xx, số khung RLHJA3656GY1488xx;

Về án phí hình sự sơ thẩm : Các bị cáo Châu T P3, Nguyễn Văn T4, La Xuân G, La Minh C1, Lý Chí T5, Châu Thế T6 và Phan Ngọc H2 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghiệp ìn đồng).

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghiệp ĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được được bản án hoặc bản án được niêm yết nơi cư trú;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc (đá gà độ) số 182/2023/HS-ST

Số hiệu:182/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về