TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 04/04/2023 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Trong ngày 04 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2023/TLST - HS ngày 24 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST - HS ngày 21 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn T, sinh ngày 28 tháng 3 năm 1982 tại xã Đ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn S (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T1 (đã chết); Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; có vợ Lê Thị Y, sinh năm 1978, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2011.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/7/2022 đến ngày 28/7/2022 được trả tự do, sau đó đến ngày 19/10/2022 bị khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T: Bà Nguyễn Thị Nữ H, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).
- Bị hại: Cháu Cao Thị AB, sinh ngày 09/12/2015 (Vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của cháu AB: Chị Cao Thị H, sinh năm 1990, là mẹ đẻ (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Yên Định, Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Ng, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).
- Những người làm chứng:
1. Cháu Trần Thị TH, sinh năm 2011 (Vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp: Chị Lê Thị Y, sinh năm 1978 (Có mặt).
2. Cháu Trần Văn BH, sinh năm 2012 (Vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp: Anh Trần Văn C, sinh năm 1981 (Có mặt).
3. Anh Cao Văn T2, sinh năm 1974 (Vắng mặt).
4. Anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1986 (Vắng mặt).
5. Chị Trịnh Thị Thu H, sinh năm 1990 (Vắng mặt).
6. Anh Lê Đình S, sinh năm 1989 (Vắng mặt).
7. Anh Nguyễn Duy C, sinh năm 1977 (Vắng mặt).
Đều ở tại: Thôn T, xã Đ, huyện Yên Định, Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25/7/2022, sau khi Trần Văn T ăn cơm, uống rượu tại nhà anh Trần Văn C, sinh năm 1981, ở Thôn T, xã Đ, huyện Yên Định xong thì ra về. Trên đường về, T rẽ vào ngõ nhà anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1986, ở thôn T, xã Đ, huyện Yên Định để lấy tiền công nhưng do không thấy anh Thành nên T không vào nhà anh Thành. Lúc này, T để xe đạp ở cổng nhà anh Thành rồi đi bộ lên hướng nhà chị Cao Thị H, sinh năm 1990, ở Thôn T, xã Đ, huyện Yên Định thì thấy cháu Cao Thị AB, sinh ngày 09/12/2015 (là con của chị Huế) đang đứng chơi trước cổng nhà. T đi đến chỗ cháu AB rồi dắt cháu AB vào góc tường sau đốc nhà ở khu vực phía sau nhà chị Huế rồi dùng tay phải lồng vào trong áo của cháu AB sờ hai bên ngực. Sau đó tiếp tục lồng tay vào trong quần cháu AB dùng hai ngón tay trỏ và ngón giữa vuốt hai bên mép âm hộ của cháu oanh khoảng 2 đến 3 phút thì thả cháu AB ra rồi T quay lại chỗ xe đạp lấy xe đi về, còn cháu AB đi vào nhà (Bút lục 95 -102, 114 - 115, 126 - 129).
Khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày, chị Huế thấy cháu AB đi chơi về quần áo xộc xệch, bơ phờ nên kiểm tra thì thấy xung quanh âm hộ có vết máu đã khô. Chị Huế hỏi thì cháu AB nói “bị chú mặc áo trắng dùng tay móc vào bướm”. Nghi ngờ cháu AB bị xâm hại nên đến 16 giờ cùng ngày, chị Huế đến công an xã Đ, huyện Yên Định trình báo nội dung sự việc (Bút lục 01).
Đến khoảng 23 giờ 10 phút ngày 25/7/2022, Trần Văn T đến Công an xã Đ, huyện Yên Định đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi dâm ô đối với cháu Cao Thị AB vào trưa ngày 25/7/2022 (Bút lục 37 - 39).
Tại bản kết luận giám định số 61/2022/TTPY-TDTE ngày 28/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (Bút lục 236 - 237), kết luận: Tại thời điểm giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục đối với Cao Thị AB:
- Lông mu: Chưa phát triển;
- Môi lớn: Không thấy tổn thương;
- Môi bé: Không thấy tổn thương;
- Âm hộ: Không thấy tổn thương;
- Âm đạo: Không thấy tổn thương;
- Tầng sinh môn: Không thấy tổn thương;
- Hậu môn: Không thấy tổn thương;
- Đầu, mặt: Không thấy tổn thương;
- Miệng, hầu họng: Không thấy tổn thương;
- Cổ: Không thấy tổn thương;
- Ngực: Không thấy tổn thương;
- Bụng: Không thấy tổn thương;
- Lưng: Không thấy tổn thương;
- Mông: Không thấy tổn thương;
- Đùi: Không thấy tổn thương;
- Vết xây xước da vùng 1/3 trên mặt trong đùi trái, không rõ hình, kích thước 1,3 x 0,9cm;
- Màng trinh không thấy tổn thương;
- Không tìm thấy tinh trùng và xác tinh trùng trên các mẫu đã làm;
- Cao Thị AB không có thai;
- Đã tiến hành thu mẫu dịch từ bộ phận sinh dục của Cao Thị AB để tìm dấu vết sinh học, phục vụ quy trình giám định AND tìm nhiễn sắc thể Y.
Tại bản kết luận giám định số AND 122/2022/TTPY ngày 10/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (Bút lục 246 - 247), kết luận:
- Dấu vết từ mẫu tăm bông thu chất bám dính tại bộ phận sinh dục của cháu Cao Thị AB gửi giám định pháp y về AND: Không có AND nhiễm sắc thể Y;
- Dấu vết trên váy đỏ đã qua sử dụng và quần đùi nữ màu hồng gửi giám định pháp y về AND: Có AND nhiễm sắc thể Y với nồng độ rất thấp, trùng khớp với AND nhiễm sắc thể Y từ mẫu máu của Trần Văn T trên các locusgen được phân tích.
Tại công văn số 153/TTPY – CV ngày 09/9/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa xác định: Dấu vết AND của Trần Văn T được phát hiện ở vị trí phần ngực hai bên và phần gấu thân váy trước trên váy đỏ và ở vị trí đũng quần trên quần đùi nữ của cháu AB (Bút lục 259 - 26).
Tại kết luận giám định số AND 121/2022/TTPY ngày 10/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (Bút lục 254 - 255), kết luận: Dấu vết trên áo phông cộc tay có cổ, màu xanh, áo cũ đã qua sử dụng và quần vải sooc màu xám có họa tiết in hình elip, đã qua sử dụng gửi giám định pháp y về AND: Có sinh phẩm của người, có AND nhiễm sắc thể thường với nồng độ rất thấp, không đủ điều kiện để so sánh.
Qua xác minh, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Định xác định Trần Văn T có tiền sử mắc bệnh tâm thần. Tại kết luận giám định số 68/KLGĐ ngày 13/01/2023 của Phân viện Pháp y tâm thần Bắc Miền Trung (Bút lục 229 - 230), kết luận:
- Tại các thời điểm trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Trần Văn T bị bệnh: Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, với hội chứng nghiện. Theo phân loạn Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 (ICD 10), có mã bệnh: F10.2;
Tại thời điểm giám định, Trần Văn T bị bệnh: Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, với hội chứng nghiện hiện đang cai, nhưng ở trong môi trường được bảo vệ. Theo phân loại quốc tế lần thứ 10 năm 2022 (ICD 10) có mã bệnh là F10.2;
- Tại tất cả các thời điểm trên, Trần Văn T đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.
Qúa trình điều tra, Trần Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của T phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Về vật chứng vụ án: 02 hộp giấy được niêm phong dán kín, có chữ ký của Lê Thị Th, Lê Văn B, Nguyễn Quyết T, Nguyễn Hữu T1 và hình dấu của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa bên trong là 01 áo phông cọc tay có cổ, mầu xanh, áo cũ đã qua sử dụng, 01 quần vải sooc màu xám có họa tiết hình elip đã qua sử dụng (do T giao nộp) và 01 váy đỏ đã qua sử dụng, 01 quần đùi nữ màu hồng đã qua sử dụng (do gia đình cháu Cao Thị AB giao nộp). Các vật chứng trên đang được bảo quản, chờ xử lý theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình giải quyết vụ án, Trần Văn T chưa bồi thường dân sự. Đại diện hợp pháp của cháu Cao Thị AB yêu cầu Trần Văn T bồi thường thiệt hại về tinh thần cho cháu AB theo quy định của pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKSYĐ ngày 24/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định đã truy tố Trần Văn T về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo Khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”; Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 146, Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/7/2022 đến ngày 28/7/2022. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Về hình phạt bổ sung, không áp dụng. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 hộp giấy được niêm phong dán kín, có chữ ký của Lê Thị Th, Lê Văn B, Nguyễn Quyết T, Nguyễn Hữu T1 và hình dấu của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa bên trong là 01 áo phông cọc tay có cổ, mầu xanh, áo cũ đã qua sử dụng, 01 quần vải sooc màu xám có họa tiết hình elip đã qua sử dụng của bị cáo T và 01 váy đỏ đã qua sử dụng, 01 quần đùi nữ màu hồng đã qua sử dụng của cháu Cao Thị AB. Các vật chứng trên đang được bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Định; Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, 586, 592 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Trần Văn T phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho cháu Cao Thị AB số tiền tương ứng từ 05 tháng đến 07 tháng lương cơ sở; Về án phí: Thực hiện theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T phát biểu quan điểm bào chữa: Thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 146, Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn T với mức thấp nhất của khung hình phạt, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/7/2022 đến ngày 28/7/2022. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo Trần Văn T phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho cháu Cao Thị AB theo quy định của pháp luật. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày quan điểm bảo vệ: Về tội danh thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến gì. Về mức hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội để lên mức án phù hợp cho bị cáo T mang tính răn đe, giáo dục chung. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 584, 586, 592 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo T phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho cháu AB với mức cao nhất mà điều luật đã quy định là 10 tháng x 1.490.000đ = 14.900.000đ.
Người đại diện hợp pháp cho bị hại Cao Thị AB có quan điểm: Về bồi thường thiệt hại cho cháu AB, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật. Về hình phạt, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.
Trong phần tranh luận: Bị cáo Trần Văn T nhất trí với quan điểm bảo chữa của người bào chữa và không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T. Bị cáo T nói lời sau cùng, bị cáo xin lỗi bị hại, gia đình bị hại và nhận thấy hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử xem xét để cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh:
Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Trần Văn T đã hoàn toàn thừa nhận: Vào khoảng hơn 11 giờ ngày 25/7/2022 tại thôn T, xã Đ, huyện Yên Định, Trần Văn T đã có hành vi dùng tay sờ hai bên ngực và vuốt hai bên mép âm hộ của cháu Cao Thị AB, sinh ngày 09/12/2015 (tính đến ngày bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội, cháu AB mới 06 tuổi 07 tháng 16 ngày) nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sinh lý của mình nhưng không nhằm mục đích giao cấu và cũng không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.
Lời khai nhận của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo T đã dùng tay sờ hai bên ngực và vuốt hai bên mép âm hộ của cháu Cao Thị AB mới 06 tuổi 07 tháng 16 ngày đã phạm vào tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại Khoản 1 Điều 146 của Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định truy tố bị cáo theo tội danh trên, đề nghị HĐXX áp dụng điều luật là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Đây là vụ án dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có tính chất ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con người được pháp luật bảo vệ và làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ cũng như ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa, thuần phong mỹ tục của người Việt. Cháu Cao Thị AB đang còn quá nhỏ nhưng bị cáo đã không làm chủ được hành vi của mình, lợi dụng sự non nớt của cháu AB để thỏa mãn nhu cầu sinh lý mà dẫn đến việc phạm tội. Trong giai đoạn hiện nay, tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em diễn ra ngày càng gia tăng, gây tác động xấu cho xã hội nên cần phải lên mức án nghiêm khắc để giáo dục, đồng thời răn đe những kẻ khác có ý định phạm tội.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo. Sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan công an để đầu thú. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Do vậy, căn cứ vào tính chất của vụ án, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra bức xúc cho gia đình bị hại và nỗi lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.
Trong quá trình điều tra, bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/7/2022 đến ngày 28/7/2022 nên cần trừ thời gian tạm giữ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 áo phông cọc tay có cổ, mầu xanh, áo cũ đã qua sử dụng, 01 quần vải sooc màu xám có họa tiết hình elip đã qua sử dụng và 01 váy đỏ đã qua sử dụng, 01 quần đùi nữ màu hồng đã qua sử dụng là những vật tư trang của bị cáo và bị hại. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu nhận lại, quần áo đã cũ, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo Trần Văn T phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho cháu Cao Thị AB theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi sự việc xảy ra cháu AB không bị thiệt hại về sức khỏe nhưng bị hại và gia đình bị hại phải chịu một nỗi đau về tinh thần nên người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo T bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho cháu AB là phù hợp nên chấp nhận. Về mức bồi thường thiệt hại cần chấp nhận tương ứng với 07 tháng lương cơ sở là phù hợp, cụ thể: 7 tháng x 1.490.000đ = 10.430.000đ.
[7] Về án phí: Bị cáo thuộc đối tượng hộ cận nghèo, có đơn xin miễn tiền án phí nên miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 146, Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 586, 592 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
2. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 12 (mười hai) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ 02 ngày (từ ngày 26/7/2022 đến ngày 28/7/2022). Bị cáo T còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 28 (hai mươi tám) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 hộp giấy được niêm phong dán kín, có chữ ký của Lê Thị Th, Lê Văn B, Nguyễn Quyết T, Nguyễn Hữu T1 và hình dấu của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa bên trong là 01 áo phông cọc tay có cổ, mầu xanh, áo cũ đã qua sử dụng, 01 quần vải sooc màu xám có họa tiết hình elip đã qua sử dụng của bị cáo Trần Văn T và 01 váy đỏ đã qua sử dụng, 01 quần đùi nữ màu hồng đã qua sử dụng của cháu Cao Thị AB theo phiếu nhập kho số NK21 ngày 27/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định.
4. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trần Văn T phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho cháu Cao Thị AB số tiền là 10.430.000đ (Mười triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị cáo không trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chưa thi hành án tại thời điểm thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật hình sự.
5. Về án phí: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 19/2023/HS-ST
Số hiệu: | 19/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về