Bản án về tội cướp tài sản số 87/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 87/2021/HS-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 19/3/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 48/2021/HSST, ngày 26 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2021/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 03 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Anh Q (Tèo h).

Sinh ngày 15 tháng 12 năm 2001, tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi đăng ký HKTT: Bon R, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm: 1975; Con bà Lê Thị C, sinh năm: 1976.

Hiện trú tại: Bon R, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Bị cáo chưa có vợ, con.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 22/9/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Ông Phạm Xuân L – Sinh năm: 1992 ( vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông 2. Bà Nguyễn Thị Thanh T – Sinh năm: 1998 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn 3, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Vũ T – Sinh năm: 1989 (có mặt)

Địa chỉ: Số 11 đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

2. Ông Đoàn Ngọc T – Sinh năm: 1987 ( vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

3. Ông Đỗ Ngọc T – Sinh năm: 1994 ( vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 10, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2020, thông qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Văn Anh Q quen biết với chị Nguyễn Thị Thanh T. Ngày 21/9/2020, Q và chị T đi nhậu với bạn tại quán Nika beer trên đường Y, thành phố B. Đến khoảng 22 giờ 40 phút cùng ngày, sau khi nhậu xong, Q và chị T cùng đi về phòng trọ của chị T thuê tại địa chỉ 08/1 đường N, phường T, thành phố B thì xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Lúc này, Q phát hiện thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, vỏ màu vàng, 64GB của chị T đang sạc pin ở trên giường nên Q đã đi đến lấy điện thoại của chị T, bỏ vào túi quần bên trái. Chị T thấy vậy giằng lấy lại điện thoại thì bị Q đẩy ra. Sau đó, Q lấy 01 con dao có kích thước 33cm, cán dao bằng nhựa, màu hồng kích thước 13cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng kích thước 20cm, có mũi nhọn của chị T, cầm dao ở trên bàn vừa đi, vừa chỉ dao về phía chị T nói “Mày ra đây nói chuyện với tao”, thì chị T đi theo Q ra đến cổng dãy trọ. Tại đây, Q và chị T tiếp tục cãi nhau, chị T yêu cầu Q trả lại điện thoại thì Q nói “Mày tin tao đâm chết mày không” thì bị Q chém trúng ngón trỏ tay trái của chị T, gây thương tích.

Q cầm tay chị T xem vết thương thì chị T giằng lại, Q nói “Mày đi vào phòng đi, năm phút nữa tao vào trả điện thoại cho”. Do thấy Q cầm dao trên tay và có lời nói đe dọa nên chị T đi vào phòng trọ chờ Q. Khi chị T đi vào phòng trọ, Q liền vứt bỏ con dao ở gần cổng, tắt nguồn điện thoại và tháo sim điện thoại của chị T vứt bên đường, rồi đi thuê nhà nghỉ trên đường N, thành phố B ngủ lại qua đêm. Đến chiều tối ngày 22/9/2020, Q mang chiếc điện thoại chiếm đoạt được của chị T đến cầm cố tại tiệm mua, bán, sửa chữa điện thoại di động Uy Tín, tại địa chỉ: 277 đường L, phường E, thành phố B (do anh Lê Vũ T, làm chủ), được số tiền 6.000.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết. Ngày 22/9/2020, chị Nguyễn Thị Thanh T đã trình báo sự việc đến Cơ quan điều tra và giao nộp 01 con dao có kích thước 33cm, cán dao bằng nhựa màu hồng kích thước 13cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng kích thước 20cm có mũi nhọn cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để phục vụ công tác điều tra. Ngày 25/9/2020, anh Lê Vũ T đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại di động trên cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để phục vụ công tác điều tra. Đối với 01 sim điện thoại gắn trong điện thoại di động Iphone XS Max, vỏ màu vàng, 64GB của chị T mà Q đã tháo vứt bỏ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 216/KLĐG ngày 13/10/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng, số Imei: 357296095067297, đã qua sử dụng, trị giá: 13.500.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 1065/TgT-TTPY ngày 12/10/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chị Nguyễn Thị Thanh T bị vết thương để lại sẹo nằm chéo mặt mu khớp liên đốt 1,2 ngón II bàn tay trái, kích thước 1cm x 0,2cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01%.

Quá trình điều tra xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng, số Imei: 357296095067297 là tài sản của chị Nguyễn Thị Thanh T. Ngày 29/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị Nguyễn Thị Thanh T là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản, chị T không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Cơ quan điều tra anh Lê Vũ T yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường số tiền 6.000.000 đồng, là tiền anh T nhận cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng từ bị cáo Q.

Ngoài ra trong quá trình điều tra Nguyễn Văn Anh Q còn khai nhận đã thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, cụ thể như sau: Khoảng 22 giờ ngày 23/8/2020, Q đến nhà anh Phạm Xuân L, tại địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông chơi và xin ở lại qua đêm. Đến ngày 24/8/2020, Q ở lại phụ giúp anh L sửa chữa nhà, đến khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi ăn tối thì vợ chồng anh L đi vào phòng đóng cửa ngủ trước, còn Q trải nệm nằm ngoài phòng khách chơi game trên điện thoại di động. Đến khoảng 02 giờ sáng, ngày 25/8/2020, Q thấy 02 chiếc điện thoại di động của vợ chồng anh L, gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone 7G màu hồng và 01 chiếc điện thoại SamSung J6 Plus màu xanh đang sạc pin để ở phòng khách, gần chỗ Q đang nằm nên đã lén lút trộm cắp: 02 chiếc điện thoại trên bỏ vào túi quần của mình, rồi nhanh chóng mở cửa đi ra khỏi nhà anh L. Q đi bộ ra đường Quốc Lộ 14 rồi bắt xe đi đến nhà bạn của Q là Đỗ Ngọc T, tại: Thôn 10, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, Q đưa cho T mượn 02 chiếc điện thoại nêu trên để mang đi cầm cố lấy tiền ở tiệm cầm đồ “Tâm Tiến”, địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (do anh Đoàn Ngọc T, làm chủ), được số tiền 3.200.000 đồng. Số tiền có được, Đỗ Ngọc T đã sử dụng cá nhân hết. Sau đó, T đã chuộc lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung J6 Plus trả lại cho Q. Trong quá trình sử dụng, Q đã làm rơi mất chiếc điện thoại này, còn chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7G do hết thời hạn cầm cố nên anh Đoàn Ngọc T đã bán cho người khác chưa rõ nhân thân, lai lịch, nên Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 23/9/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, kết luận:

- Tại thời điểm đầu năm 2019, điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu trắng – hồng được mua lại trên thị trường giá 7.000.000 đồng. Qua thời gian sử dụng, xem xét thực tế, xác định giá trị còn lại của chiếc điện thoại trên tại thời điểm tháng 8/2020 còn 4.000.000 đồng.

- Tại thời điểm tháng 6/2019, điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J6 Plus, mặt sau bằng kính màu xanh dương được mua lại trên thị trường với giá 2.500.000 đồng. Qua thời gian sử dụng, sau khi xem xét thực tế, xác định giá trị còn lại của chiếc điện thoại trên tại thời điểm tháng 8/2020 còn 1.600.000 đồng.

Quá trình điều tra, người bị hại là anh Phạm Xuân L trình báo số tài sản bị mất ngoài 02 chiếc điện thoại nêu trên, anh L còn bị mất số tiền 10.000.000 đồng để ở túi quần trong tủ quần áo nhưng bị cáo Nguyễn Văn Anh Q khai nhận chỉ trộm cắp của anh Phạm Xuân L 02 chiếc điện thoại di động. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông đã tiến hành điều tra, xác minh, đối chất nhưng không có đủ căn cứ xác định bị cáo Q đã trộm cắp số tiền 10.000.000 đồng của anh Phạm Xuân L. Đồng thời, anh Phạm Xuân L yêu cầu bị cáo Q, phải bồi thường số tiền: 5.500.000 đồng là trị giá của 02 chiếc điện thoại di động và số tiền: 10.000.000 đồng.

Đối với hành vi bị cáo Nguyễn Văn Anh Q sử dụng dao chém gây thương tích cho chị T, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%, có dấu hiệu phạm vào tội Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, ngày 02/01/2021, chị Nguyễn Thị Thanh T làm đơn không yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Anh Q. Ngày 22/01/2021, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn Anh Q về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, là phù hợp.

Đối với số tiền 10.000.000 đồng mà anh Phạm Xuân L trình báo. Quá trình điều tra, chưa có căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Văn Anh Q chiếm đoạt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với anh Đỗ Ngọc T là người mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7G và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J6 plus của bị cáo Nguyễn Văn Anh Q để cầm cố; anh Đoàn Ngọc T và anh Lê Vũ T là người nhận cầm cố các điện thoại di động mà bị cáo Q chiếm đoạt được nhưng đều không biết đây là tài sản do bị cáo Q chiếm đoạt của người khác mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý là phù hợp.

Tại bản cáo trạng số: 87/CT-VKS BMT ngày 25/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Anh Q về tội: “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Anh Q theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Anh Q phạm tội “Cướp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn Anh Q mức án từ 8 năm đến 9 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn Anh Q mức án từ 9 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt mà bị cáo Nguyễn Văn Anh Q phải chấp hành án từ 8 năm 9 tháng đến 10 năm tù.

- Về phần xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 con dao kích thước 33cm, cán dao bằng nhựa, màu hồng, kích thước 13cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng kích thước 20cm, có mũi nhọn, là công cụ bị cáo Nguyễn Văn Anh Q sử dụng vào việc phạm tội.

Đề nghị trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng, số Imei: 357296095067297 là tài sản của chị Nguyễn Thị Thanh T nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản, chị T không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với 01 đĩa DVD do bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1965, trú tại: 14 đường N, phường T, thành phố B giao nộp; chứa nội dung sao lưu đoạn video camera an ninh ghi nhận sự việc cướp tài sản của bị cáo Nguyễn Văn Anh Q, do đó cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- Về phần trách nhiệm dân sự:

Đề nghị buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường cho anh Lê Vũ T số tiền 6.000.000 đồng, là tiền anh T nhận cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng từ bị cáo Q.

Đề nghị buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường cho anh Phạm Xuân L số tiền 5.600.000 đồng, là trị giá của 02 chiếc điện thoại di động (trong đó 01 chiếc điện thoại Iphone 7G màu hồng và 01 chiếc điện thoại Samsung J6 Plus, màu xanh).

Bị cáo không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Anh Q không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Anh Q khai nhận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên khoảng 02 giờ sáng ngày 25/8/2020, tại thôn 8, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Văn Anh Q đã lén lút trộm cắp: 01 chiếc điện thoại Iphone 7G màu hồng và 01 chiếc điện thoại SamSung J6 Plus, màu xanh, của anh Phạm Xuân L. Tổng trị giá tài sản là 5.600.000 đồng.

Đến khoảng 22 giờ 40 phút ngày 21/9/2020, tại 08/1 đường N, phường T, thành phố B, Nguyễn Văn Anh Q đã dùng 01 con dao, lưỡi dao bằng kim loại, đe dọa, khống chế cướp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, của chị Nguyễn Thị Thanh T, trị giá: 13.500.000 đồng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tại phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Anh Q về tội: “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Như vậy đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Anh Q đã phạm vào tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 168 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

d) Sử dụng phương tiện nguy hiểm.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được hành vi “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản” là vi phạm pháp luật, bị cáo đã coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên vào khoảng 22 giờ 40 phút ngày 21/9/2020, Nguyễn Văn Anh Q đã dùng 01 con dao, lưỡi dao bằng kim loại, đe dọa, khống chế cướp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, của chị Nguyễn Thị Thanh T, trị giá: 13.500.000 đồng và vào khoảng 02 giờ sáng ngày 25/8/2020, Nguyễn Văn Anh Q đã lén lút trộm cắp: 01 chiếc điện thoại Iphone 7G màu hồng và 01 chiếc điện thoại SamSung J6 Plus, màu xanh, của anh Phạm Xuân L. Tổng trị giá tài sản là 5.600.000 đồng, bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét về nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, trong quá trình điều tra bị cáo đã tự thú đối với hành vi phạm tội trước đó của bị cáo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm r, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Đối với hành vi của Nguyễn Văn Anh Q sử dụng dao chém gây thương tích cho chị T, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%, có dấu hiệu phạm vào tội Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, ngày 02/01/2021, chị Nguyễn Thị Thanh T làm đơn không yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Anh Q. Ngày 22/01/2021, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn Anh Q về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, là phù hợp.

Đối với số tiền 10.000.000 đồng mà anh Phạm Xuân L trình báo. Quá trình điều tra, chưa có căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Văn Anh Q chiếm đoạt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với anh Đỗ Ngọc T là người mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7G và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J6 plus của bị cáo Nguyễn Văn Anh Q để cầm cố; anh Đoàn Ngọc T và anh Lê Vũ T là người nhận cầm cố các điện thoại di động mà bị cáo Q chiếm đoạt được nhưng đều không biết đây là tài sản do bị cáo Q chiếm đoạt của người khác mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý là phù hợp nên cần chấp nhận.

Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Anh Q là phù hợp. Cần chấp nhận.

[4] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Về phần xử lý vật chứng:

Đối với 01 con dao kích thước 33cm, cán dao bằng nhựa, màu hồng kích thước 13cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng kích thước 20cm, có mũi nhọn, là công cụ bị cáo Nguyễn Văn Anh Q sử dụng vào việc phạm tội, do đó cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng, số Imei: 357296095067297 là tài sản của chị Nguyễn Thị Thanh T. Ngày 29/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị Nguyễn Thị Thanh T là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Chị T không yêu cầu bồi thường gì thêm là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với 01 đĩa DVD do bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1965, trú tại: 14 đường N, phường T, thành phố B giao nộp; chứa nội dung sao lưu đoạn video camera an ninh ghi nhận sự việc cướp tài sản của bị cáo Nguyễn Văn Anh Q, do đó cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- Về phần trách nhiệm dân sự:

Cần buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường cho anh Lê Vũ T số tiền 6.000.000 đồng, là tiền anh T nhận cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng từ bị cáo Q.

Cần buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường cho anh Phạm Xuân L số tiền 5.600.000 đồng, là trị giá của 02 chiếc điện thoại di động. (trong đó 01 chiếc điện thoại Iphone 7G màu hồng và 01 chiếc điện thoại Samsung J6 Plus, màu xanh).

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST và án phí DSST có giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Anh Q phạm tội “Cướp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn Anh Q 07 (Bảy) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn Anh Q 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 8 (Tám) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/9/2020.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Về phần xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao kích thước 33cm, cán dao bằng nhựa, màu hồng kích thước 13cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng kích thước 20cm, có mũi nhọn, là công cụ bị cáo Nguyễn Văn Anh Q sử dụng vào việc phạm tội.

(Hiện vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2021).

Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng, số Imei: 357296095067297 là tài sản của chị Nguyễn Thị Thanh T nhận quản lý, sử dụng. Chị T không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với 01 đĩa DVD do bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1965, trú tại: 14 đường N, phường T, thành phố B giao nộp; chứa nội dung sao lưu đoạn video camera an ninh ghi nhận sự việc cướp tài sản của bị cáo Nguyễn Văn Anh Q, do đó cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- Về phần trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường cho anh Lê Vũ T số tiền 6.000.000 đồng, là tiền anh T nhận cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, dung lượng 64Gb, vỏ màu vàng từ bị cáo Q.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q bồi thường cho anh Phạm Xuân L số tiền 5.600.000 đồng, là trị giá của 02 chiếc điện thoại di động (trong đó 01 chiếc điện thoại Iphone 7G màu hồng và 01 chiếc điện thoại Samsung J6 Plus, màu xanh).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Anh Q phải chịu 200.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm và 580.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 87/2021/HS-ST

Số hiệu:87/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về