Bản án về tội cướp giật tài sản số 100/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 100/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm ở trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H và điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 70/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Phan R (Tên gọi khác: B), sinh ngày 12/6/1985 tại tỉnh H; nơi cư trú: Đường Nguyễn Phúc T, phường K, thành phố H, tỉnh TTH; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan H và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

- Ngày 22/4/2010 bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự khu dân cư” (Quyết định số 16271/QĐ-XPVPHC).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2021 cho đến nay; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Văn Đức Hòa – Luật sư của Văn phòng luật sư Hồng T – thuộc Đoàn luật sư tỉnh H; Địa chỉ: Số 9 dãy 25 Xã Tắc, thành phố H; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Phan H, sinh năm 1941 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1950 (Là bố mẹ bị cáo); đều trú tại: Đường Nguyễn Phúc T, phường K, thành phố H, tỉnh TTH; có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn D.T, sinh năm 1966; nơi cư trú: TRều S.N, phường HV, thành phố H, tỉnh TTH; có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Đỗ Thị Thanh H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nươc tỉnh H; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn B.N.H, sinh năm 1992;

nơi cư trú: Đường Lý Nam Đ, phường A, thành phố H, tỉnh TTH; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Đặng XT, vắng mặt.

+ Chị T T.H.L,; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/7/2021, sau khi đã uống rượu, Phan R điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 75P1-01… đi trên đường Đặng Tất theo hướng từ Hương Vinh ra An Hòa, thành phố H. Khi đi đến đoạn đường trước số nhà đường Đặng Tất, phường Hương Vinh, thành phố H, R thấy phía trước ngược chiều có ông Nguyễn D.T (là người khuyết tật nặng) đang điều khiển xe lăn điện đi bán vé số kiến thiết Miền Trung của 02 tỉnh Đắk Lắk và Quảng Nam thì nảy sinh ý định chiếm đoạt.

R điều khiển xe mô tô chuyển hướng sang bên kia đường ép sát xe lăn của ông Th rồi dừng lại, R ngồi trên xe mô tô của mình nói với ông Th đưa vé số để mua. Ông Th lấy trong túi xách ra 01 tập gồm 15 tờ vé số kiến thiết (không rõ số lượng vé của từng tỉnh) đưa ra trước mặt mình, R cầm lấy tập vé số rồi điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Sau đó, R đem 15 tờ vé số vừa cướp giật được chạy đến nhà của ông Nguyễn Đình T ở đường Lý Thái Tổ, phường An Hòa, thành phố H (là người có tiền sử bệnh tâm thần phân liệt) để trên bàn trong nhà và điều khiển xe mô tô bỏ đi.

Sau khi bị Phan R cướp giật 15 tờ vé số, ông T đã đến cơ quan Công an trình báo sự việc.

Tại đại lý vé số của chị T T.H.L xác định kết quả xổ số kiến thiết đối với số vé đã giao cho ông T bán trong ngày 13/7/2021 thì không có trường hợp nào có số trúng.

Theo các biên bản làm việc ngày 25/02/2022 với Văn phòng Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Quảng Nam tại H và Văn phòng Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Đắk Lắk tại H xác định: Giá vé phát hành được in trên mỗi vé số, mệnh giá mỗi vé là 10.000 đồng. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H xác định giá trị tài sản mà Phan R chiếm đoạt của ông Nguyễn D.T tại thời điểm ngày 13/7/2021 trước giờ xổ số là 150.000 đồng (15 vé số kiến thiết của 02 tỉnh Đắk Lắk và Quảng Nam).

Quá trình điều tra xác định Phan R là người nghiện rượu nặng và có dấu hiệu bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định trưng cầu giám định pháp y về tâm thần đối với Phan R.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 1147/KLGĐ ngày 23/12/2021, Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đã kết luận như sau:

Tại thời điểm gây án: Về y học: Rối loạn loạn thần trong Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, trạng thái hỗn hợp (F10.56). Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Thời điểm hiện tại: Về y học: Rối loạn loạn thần trong Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, trạng thái hỗn hợp (F10.56). Đối tượng cần được điều trị ngoại trú liên tục và cách ly rượu. Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Về vật chứng và xử lý vật chứng:

Vật chứng thu giữ trong vụ án là 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 75P1-01....; màu cam - xanh - bạc; số khung: 08AY-682027; số máy: 27E- 0393235, đã qua sử dụng (không có mặt nạ trước xe).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã làm rõ chủ sở hữu xe mô tô này là của anh Nguyễn B.N.H. Anh H không biết việc Phan R sử dụng xe mô tô của mình để làm phương tiện đi cướp giật tài sản của người khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng và trả lại xe mô tô Honda Airblade, biển số 75P1-01.... cho anh H. Anh H đã nhận lại xe và không có ý kiến gì.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Nguyễn D.T thừa nhận gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 150.000 đồng (tương đương 15 tờ vé số) và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKS-HS ngày 28/3/2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh H đã truy tố Phan R về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; các điểm b,q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan R từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo luật định.

Người bào chữa cho bị cáo – ông Văn Đức Hòa có luận cứ bào chữa như sau:

Thống nhất với tội danh, điểm, khoản, điều luật và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị để xử phạt bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mang tính nhất thời, bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; đã thành khẩn khai báo và sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại và thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự và giảm nhẹ thêm một phần hình phạt cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại – bà Đỗ Thị Thanh H có luận cứ bảo vệ như sau:

Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội nên mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, bị cáo đã thật sự ăn năn hối hận với hành vi đã gây ra và bị hại tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, mong Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm và sớm trở về với gia đình.

Tại phiên tòa, bị cáo Phan R đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất với luận cứ bào chữa của người bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Bị hại đồng ý với luận cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ thêm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, không ai có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, người bào chữa cho bị cáo và người bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan R đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/7/2021, tại đoạn đường trước số nhà đường Đặng Tất, phường Hương Vinh, thành phố H, Phan R thấy phía trước ngược chiều có ông Nguyễn D.T đang điều khiển xe lăn điện đi bán vé số nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt vé số. Bị cáo đã điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 75P1-01... ép sát xe lăn của ông T, giả vờ mua vé số. Sau khi ông T lấy 15 vé số kiến thiết của 02 tỉnh Quảng Nam và Đắk Lắk đưa ra, bị cáo dùng tay trái cầm lấy 15 tờ vé số rồi điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Theo Văn phòng Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Quảng Nam tại H và Văn phòng Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Đắk Lắk tại H xác định: Giá vé phát hành được in trên mỗi vé sốvào ngày 13/7/2021, mệnh giá mỗi vé là 10.000 đồng nên có căn cứ xác định giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của ông Nguyễn D.T là 150.000 đồng. Theo Giấy xác nhận khuyết tật ngày 24/12/2018 của Ủy ban nhân dân xã Bình Tiến, thị xã Hương Trà và Quyết định số 96/53/QĐ-UBND ngày 31/01/2019 về việc trợ cấp xã hội hàng tháng đối với đối tượng Bảo trợ xã hội của Ủy ban nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh H thì ông Nguyễn D.T là người khuyết tật nặng, phải đi lại bằng xe lăn và không có khả năng tự vệ. Như vậy, hành vi của bị cáo gây ra đã phạm vào tội Cướp giật tài sản với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự. Do đó, bản cáo trạng số 87/CT-VKS-HS ngày 28/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo Phan R dù là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi nhưng vẫn có năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo vẫn có khả năng nhận thức được mỗi tờ vé số trước thời điểm mở thưởng đều có giá trị nên việc mua vé số kiến thiết là phải trả tiền cho người bán. Tuy nhiên, bị cáo đã lợi dụng sự tật nguyền, không có khả năng tự vệ của bị hại để chiếm đoạt. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đã gây ra.

Tuy nhiên, xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi đã gây ra; đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử cần áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì cũng đủ tác dụng trừng trị, răn đe và phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Nguyễn D.T thừa nhận gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 150.000 đồng (tương đương 15 tờ vé số) và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo Phan R phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; các điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan R (Tên gọi khác: Bờm) phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phan R 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 11/8/2021.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Phan R phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp và người bào chữa của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với những người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

618
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 100/2022/HS-ST

Số hiệu:100/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về