TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HOÀ
BẢN ÁN 84/2023/HS-ST NGÀY 07/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh – tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2023/HSST ngày 11 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2023, đối với các bị cáo:
1/ Họ và tên: Nguyễn V - sinh ngày 12/4/2003 (tên gọi khác: Út Em), tại tỉnh Khánh Hòa; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:
Phật giáo; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn Tiên D 1, xã Ninh Ph, thị xã Ninh H, tỉnh Khánh H; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn C (đã chết) và bà: Nguyễn Thị L (đã chết); Anh, chị, em: có 03 người; Có vợ, con: Chưa. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22 tháng 6 năm 2023, bị Công an thành phố Cam R khởi tố về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 28 tháng 6 năm 2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
2/ Họ và tên: Trần Hữu Thiện Nh - sinh ngày 15/6/2003, tại tỉnh Khánh H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn Bình L, xã Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Trần Hữu Thanh Nh, sinh năm 1974 và bà: Bùi Thị H, sinh năm 1975; Anh, chị, em: Không; Có vợ, con:
Chưa. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
3/ Bị hại:
3.1. Bà Trương Thị H, sinh năm: 1972; Nơi cư trú: Tổ dân phố Linh V, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Vắng mặt tại phiên tòa.
3.2. Bà Huỳnh Thị Thanh L, sinh năm: 1984; Tổ dân phố Linh V, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Vắng mặt tại phiên tòa.
3.3. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1980; Tổ dân phố Linh V, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Vắng mặt tại phiên tòa.
3.4. Bà Lê Thị D, sinh năm: 1975; Tổ dân phố Lợi Th, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Vắng mặt tại phiên tòa.
3.5. Bà Trịnh Thị K Á, sinh năm: 1978; Nơi cư trú: Tổ dân phố Lợi Th, phường Cam L, thành phố Cam R. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Ngọc Th, sinh năm: 1975; Nơi cư trú: Tổ dân phố Lợi Th, phường Cam L, thành phố Cam R. Vắng mặt tại phiên tòa.
4/ Người làm chứng:
4.1. Ông Phan Bảo Kh - sinh năm: 2008; Nơi cư trú: Tổ dân phố Lợi H, phường Cam L, thành phố Cam R. Có mặt. Người đại diện hợp pháp: Bà Phan Thị Hoài Th. Vắng mặt tại phiên tòa.
4.2. Ông Nguyễn Lê Thành L - sinh năm: 2009; Nơi cư trú: Tổ dân phố Linh Ph, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Lê Kim Th. Vắng mặt tại phiên tòa.
4.3. Ông Nguyễn Hoàng Nhật L - sinh năm: 2006; Nơi cư trú: Tổ dân phố Phú H, phường Cam Ph, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Có mặt. Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Việt D. Vắng mặt tại phiên tòa.
4.4. Bà Trần Thị Mỹ H - sinh năm: 2008; Nơi cư trú: Tổ dân phố Lộc H, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Người đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị Mỹ D. Vắng mặt tại phiên tòa.
4.5. Bà Nguyễn Thị Đ - sinh năm: 1983; Nơi cư trú: Tổ dân phố Lợi Th, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23 giờ ngày 17/02/2023, Nguyễn V, Nguyễn Lê Thành L (sinh ngày 03/07/2009), Phan Bảo Kh (sinh ngày 06/10/2008), Trần Hữu Thiện Nh, Nguyễn Hoàng Nhật L ngồi nhậu tại phòng trọ của V ở tổ dân phố Lộc A, phường Cam L, thành phố Cam R. Lúc này, V nói với Nh và L xuống bến cá phường Cam L xin cá về ăn. Nh, Lên đồng ý. L điều khiển xe mô tô chở Nh xuống bến cá phường Cam L nhưng chưa có ai bán cá nên tiếp tục quay trở lại phòng trọ nhậu cùng nhóm V.
Đến khoảng 01 giờ ngày 18/02/2023, do hết mồi nhậu nên V nói cả nhóm xuống Bến cá phường Cam L xin cá về nhậu. Kh, Nh, Lên đồng ý. L không đồng ý. V nói với Nh, Kh đến bến cá phường Cam L trước xem có cá chưa nếu có thì V, L sẽ đi sau. Sau đó, Kh điều khiển xe mô tô chở Nh đến bến cá phường Cam L. Khi đến nơi Kh gọi điện thoại cho V báo đã có cá. Sau đó, Kh dựng xe ở cổng bến cá đợi L và V đến. Lúc này, V lấy một con dao giấu trong áo khoác rồi điều khiển xe mô tô 63B7-667.46 chở Lên đến bến cá phường Cam L.
Khi đến bến cá phường Cam L,Vương điều khiển xe chở L đến khu vực có 05 người phụ nữ đang làm cá cho chị Nguyễn Thị Ngọc Th gồm: Trương Thị H, Huỳnh Thị Thanh L, Nguyễn Thị H, Lê Thị D, Trịnh Thị K Á. Nh và Kh đi bộ theo sau. Lúc này, Kh và Nh đứng ở vị trí dựng xe mô tô của V; còn V và L đi đến vị trí chị Trương Thị H. V nói với chị H “Cô cho con ít cá về nấu ăn” thì chị H nói “không, cô làm thuê, nếu cho thì sẽ bị trừ tiền”. Sau đó, V và L lục soát, kéo các tấm bạt để tìm cá thì thấy có 02 con cá thu để trong kết nhựa màu vàng. V nói với chị H “cho tụi con một con cá thu” thì chị H nói “không cho gì hết, đi hết đi”. Lúc này, V lấy con dao trong túi áo khoác ra chĩa mũi dao về phía những người phụ nữ làm thuê cho chị Th và nói “Tụi bà đứng im để tui lấy cá, có muốn gì thì tìm tui”. Đồng thời, V nói L đến lấy kết nhựa đựng 02 con cá thu. Thấy tất cả đứng im, không ai dám chống trả nên L bưng kết cá thu lên xe V rồi đi về phòng trọ. Nh và Kh thấy V lấy được cá nên cũng đi theo về phòng trọ.
Khi về đến phòng trọ, V cắt đôi 02 con cá thu rồi mua đá về đựng cá trong thùng xốp cất ở phòng trọ. Đến sáng cùng ngày, V lấy ít cá nấu cho V, L, Trần Thị Mỹ H (bạn gái V) cùng ăn. Số cá thu còn lại có trọng lượng 3,6kg, V tiếp tục cất giấu trong thùng xốp.
Tại kết luận định giá tài sản số 39 ngày 15/3/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Cam Ranh kết luận: 02 con cá, loại cá thu mùa, có kích thước tương đương nhau, có tổng trọng lượng là 7,2kg trị giá 1.296.000 đồng;
01 kết cá nhựa màu vàng, đã sử dụng trị giá: 28.000 đồng. Tổng trị giá 1.324.000 đồng.
Tại kết luận giám định độ tuổi trên người sống số 3720 ngày 07/6/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: qua quá trình khám giám định, kết quả cận lâm sàng, xác định tại thời điểm giám định (tháng 06 năm 2023) Nguyễn V có độ tuổi từ 17 năm 09 tháng đến 18 năm 03 tháng.
Tại Bản cáo trạng số 84/CT-VKSCR-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh đã truy tố bị cáo Nguyễn V về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168; Trần Hữu Thiện Nh bị truy tố về tội và tội “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn V, đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 điều 168, điểm h, s khoản 1 điều 51, điều 54, điều 91, điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với Nguyễn V.
Khoản 1 điều 390, điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với Trần Hữu Thiện Nh.
* Mức hình phạt:
- Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn V từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày bắt tạm giam 28/6/2023.
- Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Hữu Thiện Nh từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Không tố giác tội phạm” cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.
* Về vật chứng vụ án: 03 khúc cá thu, tổng trọng lượng 3,6kg; 01 cái kết nhựa màu vàng đã trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc Th.
* Phần dân sự: Bị hại Trương Thị H, Huỳnh Thị Thanh L, Trịnh Thị K Á, Nguyễn Thị H, Lê Thị D không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc Th không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
- Đối với Nguyễn Lê Thành L, khi thực hiện hành vi cướp tài sản cùng với Nguyễn V; Lên chưa đủ 14 tuổi nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Đối với hành vi không tố giác tội phạm của Phan Bảo Kh, tại thời điểm xảy ra hành vi; Kh chưa đủ 16 tuổi nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Đối với Nguyễn Hoàng Nhật L, Trần Thị Mỹ H khi ăn cá thu thì không biết cá do V phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn V, Trần Hữu Thiện Nh thừa nhận hành vi phạm tội xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra truy tố xét xử; Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ và thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
Đối với người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng không ảnh hưởng đến việc xét xử các bị cáo nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.
[2] Trong hồ sơ và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 01 giờ ngày 28/02/2023, tại khu vực bến cá phường Cam L ở tổ dân phố Lợi Th, phường Cam L, thành phố Cam R; Nguyễn V, Nguyễn Lê Thành L có hành vi dùng dao đe doạ ngay tức khắc chị Trương Thị H, Huỳnh Thị Thanh L, Nguyễn Thị H, Lê Thị D, Trịnh Thị K Á (là người làm thuê cho chị Nguyễn Thị Ngọc Th) chiếm đoạt 01 kết nhựa màu vàng đựng 02 con cá thu, tổng trị giá 1.324.000 đồng.
Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn V đủ cơ sở cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự. Hành vi Trần Hữu Thiện Nh là người biết rõ Nguyễn V cướp 01 kết nhựa màu vàng đựng 02 con cá thu mùa của chị Nguyễn Thị Ngọc Th nhưng không tố giác đã cấu thành tội “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam R đối với các bị cáo Nguyễn V, Trần Hữu Thiện Nh là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn V là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác; gây mất trật tự, trị an địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo V phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên cần xử phạt bị cáo tương xứng với hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Đối với Trần Hữu Thiện Nh biết hành vi của bị cáo Vương nhưng không tố giác tội phạm đã gây khó khăn cho việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm pháp luật vì vậy phải có mức xử phạt tương với hành vi của bị cáo.
[4] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Các bị cáo không có tiền án, tiền sự nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo; Bị cáo Nguyễn V phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là 08 (tám) năm tù đối với người trên 18 tuổi.
Tuy nhiên, tại thời điểm phạm tội là người dưới 18 tuổi, khi áp dụng hình phạt sẽ áp dụng khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định nên cần xử phạt bị cáo mức án ¾ đối với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Bị cáo Nh phạm tội thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người bị khuyết tật nhẹ. Vì vậy, cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xử bị cáo ở mức đầu khung của hình phạt cũng đủ răn đe bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
[5] Đối với Nguyễn Lê Thành L, khi thực hiện hành vi cướp tài sản cùng với Nguyễn V; L chưa đủ 14 tuổi nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
[6] Đối với hành vi không tố giác tội phạm của Phan Bảo Kh, tại thời điểm xảy ra hành vi; Kh chưa đủ 16 tuổi nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
[7] Đối với Nguyễn Hoàng Nhật L, Trần Thị Mỹ H khi ăn cá thu thì không biết cá do V phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
[8] Về vật chứng vụ án: Về vật chứng vụ án: 03 khúc cá thu, tổng trọng lượng 3,6kg; 01 cái kết nhựa màu vàng đã trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc Th. [9] Phần dân sự:
Bị hại Trương Thị H, Huỳnh Thị Thanh L, Trịnh Thị K Á, Nguyễn Thị H, Lê Thị D không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc Th không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn V, Trần Hữu Thiện Nh phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào:
- Điểm d khoản 2 Điều 168; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54; Điểm 6 Khoản 2 Điều 91; Điều 98; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn V;
- Căn cứ khoản 1 Điều 390; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Hữu Thiện Nh.
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
2. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn V phạm tội “Cướp tài sản”; Bị cáo Trần Hữu Thiện Nh phạm tội “Không tố giác tội phạm”.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn V 06 (Sáu) năm tù về tội “Cướp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày bắt tạm giam 28/6/2023.
- Xử phạt: Bị cáo Trần Hữu Thiện Nh 06 (Sáu) tháng tù về tội “Không tố giác tội phạm”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
3. Về vật chứng vụ án: 03 khúc cá thu, tổng trọng lượng 3,6kg; 01 cái kết nhựa màu vàng đã trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc Th, không có ai yêu cầu gì nên không xét.
4. Phần dân sự: Bị hại Trương Thị H, Huỳnh Thị Thanh L, Trịnh Thị K Á, Nguyễn Thị H, Lê Thị D không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc Th không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
5. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn V, Trần Hữu Thiện Nh mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội cướp tài sản số 84/2023/HS-ST
Số hiệu: | 84/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về