Bản án về tội cướp tài sản số 253/2022/HS-PT

TÒA ÁNNHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 253/2022/HS-PT NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 145/2022/TLPT- HS ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Đỗ Thị Ê do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 117/2021/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

ĐỖ THỊ Ê, sinh năm: 1997; giới tính: Nữ; ĐKNKTT và nơi ở: huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 10/12; con ông: Đỗ Đình O và bà Đào Thị Ă; chồng, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

Trong vụ án còn có các bị cáo Phạm Nguyễn Nhật H, Lê Hoàng A, Đặng Xuân N, Phạm Văn Đ, Đặng Minh X không kháng cáo, không bị kháng nghị tòa không triệu tập.

- Bị hại không kháng cáo tòa không triệu tập

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Nguyễn Nhật H có quen biết với Cấn Hồng S. Do có nhu cầu tuyển nhân viên để phục vụ quán karaoke tại tỉnh Thanh Hoá nên H gọi điện để nhờ bị cáo S tìm nhân viên. Mặc dù, bị cáo S không có chức năng nhiệm vụ và không có khả năng tìm nhân viên nhưng do cần có tiền tiêu sài nên S nói dối H là hiện tại đang có 02 nhân viên muốn lấy thì chuyển trước cho S 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để giữ chân nhân viên, sau đó H đã chuyển cho S số tiền trên qua tài khoản. Đồng thời S hẹn H đến khu vực quận Đống Đa- TP. Hà Nội để đón nhân viên. Khoảng 19 giờ, ngày 15/01/2021, H gặp S tại quán cà phê ở phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội. Tại đây S nói dối với bị cáo H “Hiện tại có 02 nhân viên nhưng có một đứa chưa muốn đi, một đứa đang đi sinh nhật chưa về”, S hỏi thêm H “có muốn đón thêm nhân viên không?” H nói “Có” nên S bảo H chuyển thêm cho Sơn 2.000.000đ (Hai triệu đồng). H dùng tài khoản internet banking của mình chuyển vào số tài khoản của S số tiền 2.000.00đ (Hai triệu đồng). H ngồi chờ đến 21 giờ 30 phút cùng ngày nhưng vẫn chưa có nhân viên nên S tiếp tục nói dối H là sáng hôm sau sẽ có trách nhiệm đưa 02 nhân viên đến Thanh Hóa giao cho H. Nghe vậy, H bắt xe khách về Thanh Hóa. Khoảng 03 giờ, ngày 16/01/2021, S gửi ảnh bị cáo Ê cho H và nhắn tin lừa H với nội dung “Bây giờ có nhân viên rồi, chuyển thêm cho 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để chuộc nhân viên và lấy tiền tàu xe”. H nhắn tin hỏi S “Bây giờ chuyển thì mấy giờ có nhân viên”, S trả lời “Khoảng 06 giờ là có”. Nghe S nói vậy H đồng ý và dùng tài khoản internet banking chuyển đến số tài khoản của S số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Đến 07 giờ, ngày 16/01/2021 không thấy nhân viên đến nên H gọi điện hỏi lại thì S chặn số điện thoại của H. Chiều ngày 20/01/2021, S đến phòng trọ của Đỗ Thị Ê- là bạn của S. Tại đây bị cáo S nói với Ê“Bây giờ anh gọi điện cho một người tên H ở Thanh Hóa, sau đó nó có hỏi mày thì mày cứ bảo mày là nhân viên của anh”. Ê hỏi S “Sao lại nói vậy”, S nói “Anh giải thích sau”. Sau đó, S gọi điện video cho H và quay camera để H nhìn thấy Ê. S nói “Nhân viên của anh đây, không tin em nói chuyện với nó xem”. H hỏi Ê “Em là nhân viên của S à” Ê nói “Vâng”. Sau khi kết thúc cuộc gọi Ê hỏi S “Sao lại phải nói như vậy”. S nói với Ê “Anh lừa nó để nó chuyển tiền tìm nhân viên”. Ê hỏi S “Anh lừa được bao nhiêu tiền rồi”. S nói “Nó chuyển cho anh gần 10.000.000đ rồi”. Sau khi biết mục đích S bảo Ê nhận là nhân viên của S để lừa tiền của H nên Ê hỏi S số điện thoại của H. Sau khi, S ra về Ê gọi điện cho H nói là H bị S lừa, Ê không phải là nhân viên và bảo H ra đòi lại tiền. Nghe vậy H gọi điện nhiều lần đòi tiền S nhưng S vẫn chặn số điện thoại của H.

Khoảng 20 giờ, ngày 21/01/2021, H đi xe khách đến Hà Nội để tìm S đòi tiền. H hỏi Ê địa chỉ nhà S thì Ê chỉ cho H địa chỉ nhà chị Đỗ Thu X, (SN 1996, ở Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội - là vợ sắp cưới của S). Lúc này S không có ở đó mà H chỉ gặp chị X. H đã nói chuyện với chị X về việc S lừa H số tiền là 9.000.000đ (Chín triệu đồng) để tìm nhân viên nhưng S không tìm và không trả lại tiền cho H. Chị X nói sẽ đứng ra trả H số tiền mà S đã nhận của H trước đó. Sau đó S và X vẫn không trả lại tiền cho Hoàng.

Sáng ngày 26/01/2021, X gọi điện mời Huế ngày 27/01/2021, về Thạch Thất ăn cơm lại mặt lễ cưới của X và S ở Thạch Thất. Do vậy, Ê đã gọi điện cho H bảo H ra đòi tiền S. H nói với bị cáo Ê một vài ngày nữa sẽ ra. Khoảng 23 giờ ngày 26/01/2021, Ê tiếp tục gọi điện cho H nói “Vợ chồng nó mới cưới thấy livestream trên facebook đeo nhiều vàng chắc chắn sẽ có tiền, ra mà đòi không mấy hôm nữa nó tiêu hết” thì H đồng ý. Ê bảo H khi nào đến Hà Nội thì đón bị ở Mỗ Lao, Hà Đông để Ê đưa đến chỗ S đòi tiền.

Lúc này bị cáo H đang ngồi chơi cùng Đặng Xuân N, Lê Hoàng A, Đặng Minh G, Phạm Văn Đ đều ở Thanh Hóa. Tại đây, Đ và N nói chuyện về việc ngày 27/01/2021, sẽ ra Hà Nội để xem và mua xe ô tô. Khi biết N, Đ lên Hà Nội, H bảo Đ và N cho đi nhờ xe đến Hà Nội. Do vậy, cả nhóm rủ nhau đến Hà Nội chơi để sáng đi xem xe ô tô cùng N và Đ. N mượn xe ô tô Chevrolet loại 05 chỗ ngồi, chở cả nhóm đi Hà Nội.

Khoảng 03 giờ ngày 27/01/2021, cả nhóm đến khu vực cầu Vĩnh Tuy, Hà Nội thì dừng lại ăn uống. Khoảng 03 giờ 30 phút, H nói với cả nhóm đưa H đến khu vực Mỗ Lao - Hà Đông đón Ê. Khi Ê lên xe ô tô, bị cáo H giới thiệu với cả nhóm “Đây là người mà vợ chồng nó nói dối là nhân viên để lừa tiền tao” (Trước đó khoảng 02 ngày bị cáo H đã nói với bị cáo Hoàng A về việc H bị S lừa tiền trong việc tìm nhân viên phục vụ quán karaoke). Sau đó, Hoàng A nói với H “Lần này ra mà không lấy được tiền thì bắt vợ nó về Thanh Hóa làm nhân viên, khi nào trả hết nợ thì thả về”. Sau đó, Ê gọi điện cho S hỏi địa chỉ thì S gửi vị trí qua ứng dụng messenger cho Ê, Ê đưa điện thoại của Ê cho N để N đi theo chỉ dẫn vị trí mà S gửi cho Ê để đi về Thạch Thất gặp S.

Khoảng 05 giờ, ngày 27/01/2021, cả nhóm H đến huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội thì dừng xe tại quán bún. Nhóm của bị cáo H đi vào quán bún uống nước. Sau đó, Ê gọi điện thoại cho S bảo ra đón thì bị cáo S bảo Ê đứng chờ để S bảo X ra đón. Sau đó, H nói với Ê, G, Hoàng A, Đ là “Tất cả đứng tách nhau ra không để nó đến nó nhìn thấy nó lại chạy mất”. Lúc này Ê ngồi trong quán bún còn Đ và G đi sang bên đường đối diện quán bún đứng, Hoàng A và G đi lên phía đường phía bên trái của quán bún.

Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 27/01/2021, X đi xe máy Honda Dream đến đón Ê. Thấy X, H chạy đến nói với X“Mày có nhớ tao là ai không, mày có thích trốn không”. Sau đó, H dùng tay phải khoác cổ X, Hoàng A ra mở cửa xe ô tô, H đẩy X lên xe ô tô ngồi. Khi lên xe ô tô, N lái xe, G ngồi ghế phụ phía trên, Hoàng A ngối sau ghế lái, X ngồi giữa, H ngồi ghế sau bên phụ. H bảo Đ, Ê đi chiếc xe máy của X đi theo sau. Khi đi đến khu vực sân vận động huyện Thạch Thất thì H hỏi chị X: “Bây giờ số tiền hai vợ chồng mày nợ tao tính thế nào” thì X nói: “Tôi không quen biết các anh sao các anh lại bắt tôi lên xe ô tô”. Sau đó, H nói “Mày gọi điện cho chồng mày bảo mày đang ngồi với tao”, sau đó X gọi điện thoại cho S và nói “Anh à, anh nợ tiền người ta thì trả cho người ta đi, em đang ngồi với người ta đây” sau đó H giật điện thoại của X để nói chuyện thì S tắt máy. H đưa lại điện thoại cho X và nói “Sao bà nói một đường mà làm một nẻo, nói đứng ra trả tiền cho tôi mà không trả còn nhắn tin chửi tôi”. X nói“ Tôi không chửi anh”, H đưa cho chị X xem tin nhắn và hỏi X “Đây có phải số điện thoại của mày không” X nói “Đúng”. Sau đó bị cáo H dùng tay trái tát 01 phát trúng má chị X. Lúc này Đ ra hiệu cho xe ô tô dừng lại và Ê lên ô tô ngồi, G xuống xe đi xe máy cùng bị cáo Đ. Cả nhóm tiếp tục đi theo hướng đi Đại lộ Thăng Long. Khi đi đến gần lối rẽ ra Đại Lộ Thăng Long cách khoảng 01 km thì H bảo N dừng xe ô tô và bảo các Đ, G, N nhấc chiếc xe máy Honda Dream của X lên cốp sau xe ô tô. Sau khi cho chiếc xe máy vào cốp xe ô tô tất cả cùng ngồi lên xe ô tô đi theo hướng đi ra Đại Lộ Thăng Long, H nói với X “Bây giờ có trả tiền không hay về Thanh Hoá làm nhân viên”, X nói với H “Bây giờ đưa mình về đường Láng mình lấy tiền của mẹ mình song mình đưa trả bạn”. Sau đó, cả nhóm đi theo hướng Đại lộ Thăng Long đi nội thành Hà Nội. Đi được khoảng 500 mét thì X có điện thoại gọi đến thì H nói với G: “Mày lấy điện thoại của nó đưa đây cho tao”. Lúc này G đang ngồi cạnh X, G dùng tay phải lấy chiếc điện thoại Iphone X màu trắng trên tay Hoà và đưa cho H. H cầm điện thoại của X và yêu cầu X cung cấp mật khẩu điện thoại và mật khẩu icloud với mục đích nếu vợ chồng Hòa không trả tiền thì Hoàng sẽ bán chiếc điện thoại của chị X để trừ nợ. Chị X đọc mật khẩu 2-3 lần nhưng không đúng nên Hoàng A dùng tay trái tát vào mặt X 02 phát và nói với X “Đọc cho đúng vào”. Lúc này G nói “Nếu có nợ thì trả cho xong đi” sau đó chị X cung cấp mật khẩu cho H. Sau khi có được mật khẩu, H xóa bỏ mật khẩu điện thoại, H tiếp tục hỏi chị X mật khẩu tài khoản internetbanking để H kiểm tra nếu tài khoản có tiền sẽ chuyển tiền sang tài khoản của H để trừ nợ nhưng X nói đó là tài khoản của S nên X không biết. Sau đó, H bảo X gọi điện thoại cho mẹ X bảo mẹ X cho tiền trả nợ cho bị cáo H, sau đó X bảo H đi ra đường Láng- Đống Đa- Hà Nội để X xin tiền mẹ X trả cho H. Cả nhóm đi đến Láng thượng, Đống Đa thì dừng xe, lúc này H yêu cầu X gọi điện thoại cho mẹ X, X gọi mấy cuộc mẹ X không nghe máy. Sau đó, H lấy 01 tờ giấy A4 và bút, H bắt X viết giấy bán chiếc điện thoại trên cho H với giá 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) X không đồng ý và không viết giấy bán điện thoại thì H đe doạ và chửi. Sau đó, H tự tay viết giấy bán điện thoại và bắt X ký và điểm chỉ vào giấy bán điện thoại. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, H trả chìa khóa xe máy cho X đi về. Sau khi X về thì nhóm H đi xem xe ô tô. Đ, N, Hoàng A xuống xem còn Ê, G, H ngồi trong xe. Khi xem xe xong đến khoảng 10 giờ cùng ngày thì cả nhóm đi về Thanh Hoá. Trên đường về, H nói với cả nhóm là X bán điện thoại của X cho H để trừ nợ và H dơ cho cả nhóm xem tờ giấy bán điện thoại và chiếc điện thoại Iphone X màu trắng của X cho cả nhóm xem. Khi cả nhóm đi đến khu vực huyện Hà Trung- tỉnh Thanh Hoá thì Đ xuống xe còn cả nhóm bị cáo H tiếp tục về Thanh Hoá.

Vật chứng thu giữ: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X vỏ màu trắng, mặt sau bị nứt vỡ nhiều vết, dung lượng 64GB, số IMEI:

353044090118820, bên trong không có sim (Điện thoại đã qua sử dụng);

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 38/KL-HĐĐG của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Thạch Thất ngày 29/4/2021, kết luận: có giá trị tại thời điểm hiện tại là: 7.025.000đ (Bảy triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Cơ quan điều tra đã trả điện thoại cho chị X.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích: Số 2946/C09-TT1 ngày 27/04/2021, của Viện Khoa Học Hình Sự- Bộ Công an kết luận. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của chị Đỗ Thu Hoà tại thời điểm giám định là: 0% Cơ chế hình thành thương tích: không có cơ sở xác định cơ chế hình thành thương tích.

Đối với chiếc xe ô tô Chevrolet loại 05 chỗ ngồi, Cơ quan điều tra đã xác định chủ sở hữu không liên quan nên đã trả lại.

Về dân sự:

- Gia đình các bị cáo đã bồi thường cho chị Đỗ Thu X số tiền 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng) tiền viện phí. Chị X đã nhận, không yêu cầu gì thêm và xin giảm án cho các bị cáo.

- Gia đình bị cáo Cấn Hồng S đã trao trả cho bị cáo Phạm Nguyễn Nhật H số tiền 9.000.000đ (Chín triệu đồng), mẹ bị cáo H là bà Nguyễn Thị L đã đại diện cho bị cáo H đứng ra nhận đủ số tiền trên.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 117/2021/HSST ngày 29/12/2021 Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Phạm Nguyễn Nhật H, Đỗ Thị Ê, Lê Hoàng A, Phạm Văn Đ, Đặng Xuân N, Đặng Minh G phạm tội “Cướp tài sản”. Cấn Hồng S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” - Áp dụng: khoản 1 điều 168; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điều 38; điều 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đỗ Thị Ê 24(hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án còn quyết định hình phạt của các bị cáo khác, quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 12/01/2022 bị cáo Đỗ Thị H kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:

Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đỗ Thị Ê về tội cướp tài sản theo khoản điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt 24 tháng tù là phù hợp.Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới nên đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung:

Căn cứ lời khai của các bị cáo trong vụ án, lời khai bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội đã xét xử các bị cáo Phạm Nguyễn Nhật H, Đỗ Thị Ê, Lê Hoàng A, Phạm Văn Đ, Đặng Xuân N và Đặng Minh G tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 điều 168 Bộ luật hình sự và bị cáo Cấn Hồng S tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị Ê hội đồng xét xử thấy rằng:

Do có việc Cấn Hồng S lợi dụng Huế để lừa đảo chiếm đoạt tiền của H nên Đỗ Thị Ê đã bàn bạc với H đi tìm S để đòi tiền. Khi đưa được chị Đỗ Thu X(là vợ Sơn) lên xe ô tô của H, Ê đã chứng kiến việc H tát X, bắt X viết giấy bán điện thoại nhưng Ê không có phản ứng gì bỏ mặc hậu quả xảy ra. Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo tội “Cướp tài sản” với mức hình phạt 24 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên hành vi của bị cáo giúp sức cho H có nguyên nhân do bị cáo bức xúc việc S lợi dụng bị cáo để lừa đảo chiếm đoạt tiền của H. Bị cáo thực hiện hành vi do nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhân thân chưa tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn phải chăm sóc bố bệnh tật; có địa chỉ rõ ràng; bị hại cũng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo, cho bi cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Vì vậy hội đồng xét xử phúc thẩm có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị Ê, sửa bản án hình sự sơ thẩm của tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị Ê. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 117/2021/HSST ngày 29/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.

+ Áp dụng: khoản 1 điều 168; điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 54; điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : Đỗ Thị Ê 24(hai bốn) tháng tù về tội “Cướp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48(bốn tám) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo về ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 253/2022/HS-PT

Số hiệu:253/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về