Bản án về tội cướp tài sản số 24/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Họ và tên: V1 (tên gọi khác K’ Kiều) sinh ngày 14/4/2004 tại L; NKTT và chỗ ở: Thôn 15, xã Lộc Thành, huyện B, tỉnh L; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: K’Ho; Giới tính: Nam Tôn giáo:

Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông C sinh năm 1965 và bà Ka H sinh năm 1970; Vợ con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 27/9/2021 đến ngày 06/10/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.“Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa”.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lương Minh Tr , bà Hoàng Thị H là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh L. “Có mặt

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông C, sinh năm 1965 và bà Ka H, sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn 15, xã Lộc Thành, huyện B, tỉnh L“Ông Chinh có mặt, bà H vắng mặt”

* Người bị hại: Anh Hoàng Lê Gia Đ , sinh ngày 04/3/2007; địa chỉ: Thôn 8, xã Lộc Nam, huyện B, tỉnh L. “Vắng mặt”

* Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Lê Thị L , sinh năm 1980; địa chỉ:

Thôn 8, xã Lộc Nam, huyện B, tỉnh L “Có mặt”

* Đại diện Đoàn xã Lộc Thành: Ông Lương Triều Nhật L , chức vụ: Bí thư. “Có mặt” 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:” Khoảng 16 giờ 30 ngày 26/9/2021, sau khi uống rượu cùng V, sinh năm 2005, B, sinh năm 1997, V, sinh năm 2000, đều cùng trú tại thôn 15, xã Lộc Thành, huyện B, thì V1 cầm 01 con dao tự chế, V cầm 01 cái cuốc rồi cùng B, V đi trên 02 xe mô tô vào khu vực xã Lộc Nam với mục đích đánh nhau tuy nhiên khi gặp đối tượng mâu thuẫn, do có quen biết với B nên không đánh nhau nữa. V chở V1 đến sân bóng thuộc thôn 8, xã Lộc Nam,huyện B, V và B cũng đi theo, khi đến nơi, V1 cầm dao đuổi hù dọa những người trên sân bóng làm họ hoảng loạn bỏ chạy. Sau đó, V1 đi bộ lên khu vực chùa V thì thấy anh Hoàng Lê Gia Đ , sinh ngày 04/3/2007, NKTT: Thôn 8, xã Lộc Nam, huyện B đang đứng chụp hình trước cổng chùa V, do nghĩ Đ từng đánh nhau với mình nên V1 đuổi chém Đ . Lúc này, Đ dắt xe hiệu Yamaha Sirius, BKS: 49P4-xxxx của mình chạy được một đoạn thì vấp ngã, V1 dùng dao chém về phía Đ nhưng không trúng làm dao bay ra phía trước. Hoảng sợ, Đ nhặt dao của V1 chạy vào chùa V gặp thầy trụ trì nhờ cứu, V1 thấy Đ bỏ chạy thì không đuổi theo nữa. Thấy chìa khóa xe của Đ trên xe, V1 khởi động chạy ra phía ngoài chùa. Lúc này, mặc dù V, V, B khuyên trả lại xe nhưng V1 không đồng ý rồi dùng cuốc đập vào đầu xe. Sau đó, trên đường đi ra Tp. Bảo Lộc, V1 nhiều lần đập phá các phần nhựa của xe, đèn xe, tháo biển kiểm soát của xe vứt đi nhằm làm người khác không nhận ra xe mình vừa chiếm đoạt. Đến tối cùng ngày, V1 điều khiển xe chạy vào vườn của mình. Đến ngày 27/9/2021, V1 đang điều khiển xe 49P4-xxxx thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 134/KL-HĐĐGTS ngày 30/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự huyện B kết luận: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, BKS: 49P4-xxxx đã qua sử dụng có giá 3.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 147/KL-HĐĐGTS ngày 06/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự huyện B kết luận: Thiệt hại của xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, BKS: 49P4-xxxx là 1.000.000đ Tại Bản cáo trạng 16/CTr-VKS ngày 25/02/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh L đã truy tố bị cáo Việt về tội “Cướp tài sản ” theo điểm e khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 90, 91, 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 42 tháng đến 48 tháng tù; đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Đại diện người bị hại trình bày gia đình đã nhận đủ số tiền bồi thường không thắc mắc, khiếu nại hay tranh luận gì và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, học vấn mới lớp 02 nên khả năng nhận thức pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, đã bồi thường xong cho gia đình bị hại và được gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát là cao. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo là người chưa thành niên nên việc xử lý người chua thành niên đảm bảo lợi ích tốt nhất của họ, chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, thống nhất quan điểm bào chữa của Người bào chữa, tỏ ra ăn năn hối cải, không thắc mắc, khiếu nại hay tranh luận gì.

Bị cáo không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình dúng như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai người bị hại và các nhân chứng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 26/9/2021, tại thôn 8 xã Lộc Nam huyện B bị cáo V1 có hành vi dùng dao chém anh Hoàng Lê Gia Đ nhưng không trúng làm anh Đ hoảng sợ bỏ chạy. Sau đó bị cáo V1 chiếm đoạt xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, Biển kiểm soát 49P4-xxxx anh Đ đang quản lý với mục đích sử dụng làm phương tiện cá nhân, tài sản được định giá 3.000.000 đồng. Tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản, anh Đ chưa đủ 16 tuổi. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội cướp tài sản quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi của bị cáo: Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, mà còn đe dọa đến tính mạng sức khỏe của người bị hại, gây tâm lý hoang mang lo sợ đến quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an tại địa pH trong tình hình tội phạm ngày càng tăng cả tính chất phức tạp và mức độ phạm tội. Mặc dù là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật có phần hạn chế nhưng bị cáo vẫn nhận thức được hành vi của mình là vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm mà vẫn cố tình phạm tội. Tại phiên tòa bố bị cáo và Đại diện Đoàn xã Lộc Thành cho biết bị cáo là người lười lao động, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu, chơi bời lêu lỏng, thuộc thành phần bất trị của gia đình và thôn xóm. Điều này cho thấy việc giáo dục tại gia đình và đoàn thể nơi cư trú thiếu tác dụng đối với bị cáo. Do đó, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện nộp tiền khắc phục hậu quả do mình gây ra; tại phiên tòa gia đình bị hại đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người chưa thành niên nên cần áp dụng Điều 90, 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự để xem xét khi lượng hình cho bị cáo. Mặc dù bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ khoản 1 Điều 51 và 01 tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét thấy hình vi của cáo là rất manh động, liều lĩnh và quá nguy hiểm cần phải xử lý nghiêm để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung nên HĐXX không áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo.

[5] Xét đề nghị của viện kiểm sát nhân dân huyện B thấy rằng: Mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo như vậy là phù hợp đủ răn đe cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo, bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, không yêu cầu gì nữa nên không đề cập đến.

[7] Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 07 mảnh vỡ nhựa, 01 cuốc cầm tay, cán bằng gỗ dài 30cm, lưỡi kim loại kích thước 10x04cm; 01 con dao tự chế, mũi quắm, lưỡi dao dài 31cm, cán bằng gỗ dài 27cm.

[8] Đối với hành vi bị cáo đập phá xe bị hại gây thiệt hại 1.000.000đ nhưng chưa được xử lý. Do đó kiến nghị Cơ quan Công an có thẩm quyền tiếp tục xử lý hành vi này của bị cáo.

[9] Về án phí, lệ phí tòa án: Bị cáo là người chưa thành niên nên bố mẹ bị cáo là ông K’ Chinh và bà Ka H chịu trách nhiệm nộp thay cho bị cáo án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh, Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo V1 phạm tội Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo V1 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 27/9/2021 đến ngày 06/10/2021. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 07 mảnh vỡ nhựa, 01 cuốc cầm tay, cán bằng gỗ dài 30cm, lưỡi kim loại kích thước 10x04cm; 01 con dao tự chế, mũi quắm, lưỡi dao dài 31cm, cán bằng gỗ dài 27cm.

3. Kiến nghị Cơ quan Công an có thẩm quyền tiếp tục xử lý hành vi bị cáo đập phá xe của người bị hại gây thiệt hại 1.000.000đ.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc ông C và bà Ka H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, ông C, bà L có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/3/2022); bà Ka H, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án đối với phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về