Bản án về tội cướp tài sản số 13/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 13/2021/HS-PT NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 167/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo Nguyễn Thanh Toàn, do có kháng cáo của bị cáo và người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 269/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Bị cáo có kháng cáo và được kháng cáo :

Nguyễn Thanh T sinh năm: 1989, tại Khánh Hòa; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 52/20 TP, VN, NT, Khánh Hòa. Chỗ ở trước khi bị bắt: Số 10 Lê Thanh N, VN, NT, Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Trần Thị Bạch Y; có vợ là Nguyễn Thị Cẩm N và có 01 con sinh năm 2015;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt, tạm giam ngày 22 tháng 5 năm 2020. Bị cáo đang bị tạm giam.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác: Bị hại có kháng cáo:

Mai Thúy A; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: BĐ, VN, NT, Khánh Hòa; chỗ ở: Phòng trọ đường 28, PL, NT. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Vũ Như H – Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Vũ Như H và Cộng sự - Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa, bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của bị cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 22 tháng 5 năm 2020, Nguyễn Thanh T (là chồng của N) điều khiển xe máy, biển số 79N2-278.70 chở N lưu thông trên đường Lê Hồng P, thành phố N, theo hướng từ khu vực Mã V về chợ C, phường V thì phát hiện chị A cũng đang điều khiển xe máy, biển số 49M2-5752 lưu thông trên đường Lê Hồng P theo hướng ngược lại. T quay xe lại rồi đuổi theo nhưng A không dừng lại. Khi gần đến khu vực trước nhà số 657 đường Lê Hồng P, phường P, thành phố N, T điều khiển xe áp sát vào xe của A làm xe A ngã xuống đường. Lúc này, T định nói chuyện với A để giải quyết việc vay nợ tiền nhưng do sợ A bỏ đi, nên T rút chìa khóa xe máy của A cất giấu trong túi quần. Vì A không thống nhất được với T về việc trả nợ nên hai bên cãi nhau. T xông tới dùng tay đánh nhiều phát vào người chị A, túm tóc kéo đầu chị A xuống đất, A nhặt một cục đá chống trả lại thì T đưa tay lên đỡ. Sau đó, có người dân can ngăn nên T không đánh A nữa mà đi đến và ngồi lên xe máy biển số 49M2-5752 của A. A sợ T lấy xe nên chạy đến giật chìa khóa xe nhưng bị T đẩy ra. Sau đó, do bực tức việc yêu cầu A trả nợ nhưng A không trả nên T cắm chìa khóa và nổ máy điều khiển xe A bỏ chạy về hướng chợ C, phường V. Lúc này, N cũng điều khiển xe 79N2-278.70 theo hướng về chợ C, phường V để bán hàng.

Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, bà A đến Công an phường trình báo.

Qua truy xét, cơ quan công an đến nhà Nguyễn Thanh T, số 10 đường Lê Thanh N, phường V, thành phố N, phát hiện 01 xe máy biển số 49M2-5752 bên trong ngăn đựng đồ dùng có 01 ví bằng vải có 01 tờ tiền mệnh giá 2USD và một số giấy tờ cá nhân mang tên Mai Thúy A. Cơ quan công an tiến hành thu giữ và mời Nguyễn Thanh T về trụ sở làm việc.

Qua làm việc, Nguyễn Thanh T khai nhận sau khi cãi nhau yêu cầu A trả nợ không được nên T dùng tay đánh A rồi nảy sinh ý định và chiếm đoạt chiếc xe máy của bà A đem về nhà cất giấu.

Tại Biên bản định giá tài sản số 187/HĐĐG ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận: 01 xe máy Attila, biển số 49M2-5752 trị giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự và áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thanh T, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 02 (hai) năm tù về tội “Cướp tài sản". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 22 tháng 5 năm 2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh T và bị hại Mai Thúy A, giảm nhẹ cho bị cáo Nguyễn Thanh T một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm tranh luận: Xuất phát từ lỗi của bị hại, mượn tiền bị cáo thời gian lâu nhưng không trả lại cố tình tránh mặt. Sau khi phiên tòa sơ thẩm diễn ra, bị cáo cũng cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh bị cáo đã có thời gian phục vụ trong quân đội, bản thân bị cáo cũng có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, giảm hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

- Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị cáo Nguyễn Thanh T và bị hại Mai Thúy A kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định, nên kháng cáo của bị cáo và người bị hại được cấp phúc thẩm xem xét.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo và bị hại:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh T đã khai nhận phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng đã được thu giữ, phù hợp với lời khai của người bị hại, những người tham gia tố tụng khác, cùng với các chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương, bản án hình sự sơ thẩm số 269/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xét xử bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thì nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo là do người bị hại không thực hiện đúng cam kết trả nợ, lẩn tránh, gây bức xúc cho bị cáo. Mục đích của bị cáo T là lấy chiếc xe của chị A nhằm gây áp lực để chị A thanh toán khoản nợ nên sau khi chiếm đoạt chiếc xe máy bị cáo mang về để tại nhà và yêu cầu chị A mang tiền xuống trả để nhận lại xe. Sau khi bị bắt bị cáo cũng đã giải quyết khoản nợ cho chị A, thể hiện thái độ ăn năn hối cải của mình. Chị Mai Thúy A cũng thừa nhận việc có nợ của bị cáo do không trả nợ đúng hẹn mới dẫn đến sự việc nêu trên. Chị A tự nhận mình cũng có một phần lỗi nên làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Dù vậy, hành vi vi phạm của bị cáo cũng đáng lên án và phải bị xử lý nghiêm theo đúng qui định của pháp luật.

Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp thêm cho Tòa án cấp phúc thẩm tài liệu chứng minh bị cáo đã hoàn thành nghĩa quân sự và giấy chứng nhận quân dự bị. Xét thấy, đây là các tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm, nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có vợ và 01 con còn nhỏ (sinh năm 2015), đồng thời là lao động chính trong gia đình. Đây không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định nhưng Hội đồng xét xử cũng xem xét, cân nhắc khi lượng hình cho bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là hoàn toàn phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đã bị bắt tạm giam (08 tháng 14 ngày) từ ngày 22 tháng 5 năm 2020, tính đến ngày xét xử ngày 05 tháng 02 năm 2021, thời hạn này cũng tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ để răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng để bị cáo thấy được tính nhân đạo, sự khoan hồng của pháp mà tu dưỡng, rèn luyện bản thân không vi phạm pháp luật trong tương lai. Do đó, chỉ cần xử phạt bị cáo bằng với thời hạn đã tạm giam là 08 tháng 14 ngày, đồng thời trả tự do cho bị cáo ngay tại phiện tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về tội phạm khác.

[3] Về án phí: Bị cáo và người bị hại không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 328; Điều 343; điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự,

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại, sửa một phần bản án sơ thẩm:

Căn cứ khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự và áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thanh T, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 08 (tám) tháng 14 (mười bốn) ngày tù về tội “Cướp tài sản". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 22 tháng 5 năm 2020. Như vậy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

Trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về tội phạm khác.

2. Bị cáo Nguyễn Thanh T và bị hại Mai Thúy A không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 05 tháng 02 năm 2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 13/2021/HS-PT

Số hiệu:13/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về