TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 82/2023/HS-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N,tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 103/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2023/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn Kh - sinh ngày 07/7/2006; tại: thị xã N, Khánh Hòa; Nơi cư trú: Tổ dân phố N, Phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ch, sinh năm 1970 và bà: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1973; Hội thẩm nhân dân Lê Văn Ch thống nhất với ý kiến của hội thẩm nhân dân Nguyễn Thị H.
Thẩm phán_ chủ toạ phiên toà thống nhất với ý kiến của hội thẩm nhân dân Nguyễn Thị H và Lê Văn Ch.
Chị em ruột: Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn Qu. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Nguyễn Ch, sinh năm 1970; có mặt Bà Nguyễn Thị Th – sinh 1973; có mặt Địa chỉ: Tổ dân phố N, phường N, thị xã Ninh H̀, Khánh Hoà.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Anh Th - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Khánh Hoà. Có mặt Địa chỉ: 180 T, phường Ninh Hiệp, thị xã N, Khánh Hoà.
- Người bị hại: Thái Văn Th1, sinh năm 1968; có mặt Địa chỉ: Tổ dân phố Phú Thọ 1, Phường N, thị xã N, Khánh Hoà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 27/5/2023, Nguyễn Văn Kh đi xe buýt từ Nha Trang về N. Khi xuống xe tại trạm dừng xe buýt ở cây xăng N thuộc tổ dân phố Phú Thọ 2, phường N thì Kh bắt xe ôm của ông Thái Văn Th1 đến khu đất trống thuộc tố dân phố Mỹ Á, phường N, thị xã N. Khi xuống xe, Kh hỏi tiền xe hết bao nhiêu thì ông Th1 trả lời là 30.000 đồng, Lúc này, Kh không đủ tiền trả nên nảy sinh ý định lừa ông Th1 để lấy tiền. Kh yêu cầu ông Th1 trả lại 470.000 đồng để Kh đưa tờ 500.000 đồng. Ông Th1 tưởng thật nên lấy trong ví ra đưa cho Kh 470.000 đồng thì Kh nhanh chóng giật lấy rồi bỏ chạy. Số tiền này Kh tiêu xài cá nhân hết. Ngày 28/5/2023, ông Th1 đến Công an phường N trình báo sự việc.
Tại bản Cáo trạng số 86 Ngày 14/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã N đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Kh về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Kh. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm b,s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự, đề nghị khung hình phạt từ 09 tháng đến 01 năm tù đối với Nguyễn Văn Kh;
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Thái Văn Th1 đã được bồi thường và không có yêu cầu gì nên không xét.
Vật chứng: đề nghị tuyên trả cho bị cáo 01 áo trắng ngắn tay màu trắng và 01 quàn jean dài màu xanh vì không phải công cụ, phương tiện phạm tội.
Về án phí: bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và bị hại không có ý kiến tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo Nguyễn Văn Khánh nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi của mình mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công An thị xã N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Kh đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử thấy Viện kiểm sát nhân dân thị xã N truy tố bị cáo Nguyễn Văn Kh về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ đó là quyền sở hữu đối với tài sản của công dân, hành vi của bị cáo thực hiện có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội nên cần xử phạt nghiêm mới đủ tính giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để quyết định hình phạt cho tương xứng.
[4] Về xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Nguyễn Văn Kh không có tình tiết tăng nặng.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản cướp giật của ông Thái Văn Th1 bị cáo đã bồi thường; bản thân bị cáo là người chưa thành niên. Tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm b,s khoản 1; khoản 2 Điều 51 và Điều 54,Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để bị cáo thấy được sự khoan hồng của nhà nước ta, giúp bị cáo yên tâm cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[5] Về vật chứng vụ án: trả cho bị cáo 01 áo trắng ngăn tay màu trắng và 01 quần jean dài màu xanh cho bị cáo vì không phải công cụ, phương tiện phạm tội.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại Thái Văn Th1 đã được bồi thường và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: bị cáo Nguyễn Văn Kh phải chịu 200.000 án phí hình sự sơ thẩm.
[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54,Điều 38, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự 2015.
Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn Kh 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
2. Về vật chứng vụ án: trả cho bị cáo 01 áo trắng ngắn tay màu trắng và 01 quần jean dài màu xanh vì không phải công cụ, phương tiện phạm tội, theo biên bản giao nhận ngày 22/11/2023 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Ninh Hòa với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.
3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Thái Văn Th1 đã nhận bồi thường và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: bị cáo Nguyễn Văn Kh phải chịu 200.000 án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo,đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 82/2023/HS-ST
Số hiệu: | 82/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về