TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 788/2022/HS-PT NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 511/2022/TLPT-HS ngày 14 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Lê Hoàng C do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình đối với bản án hình sự sơ thẩm số 84/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Bị cáo bị kháng nghị:
LÊ HOÀNG C, sinh năm: 1974; giới tính: Nam; ĐKNKTT: quận Đ, thành phố Hà Nội; nơi ở: quận Đ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Lê Tuấn O (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ (đã chết); vợ: Nguyễn Thị Y(đã ly hôn) có 01 con sinh năm 1994; tiền án, tiền sự:
- Tại Bản án số 240/HSST ngày 29/7/1994, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 36 tháng về tội “Cướp tài sản của công dân”;
- Tại Bản án số 435/HSST ngày 16/11/1996, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 54 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phải chấp hành 24 tháng tù của bản án số 240/HSST ngày 29/7/1994. Buộc bị cáo phải chấp hành chung cho hai bản án là 78 tháng tù. Ra trại: 28/11/2002;
- Tại Bản án số 269/HSST ngày 28/7/2004 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 8 năm 6 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chi cục THA dân sự quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã ra Quyết định đình chỉ THA số 73 ngày 10/9/2015, căn cứ vào Quyết định miễn giảm số 38 ngày 31/7/2015. Ra trại: 15/5/2012.
- Tại Bản án số 203/2017/HSST ngày 19/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án phúc thẩm số 869/2017/HS-PT ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt 15 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bắt ngày 23/9/2021; có mặt.
Trong vụ án còn có bị cáo: Lê Trường G không kháng cáo, không bị kháng nghị tòa không triệu tập.
Bị hại không kháng cáo tòa không triệu tập
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 00 ngày 31 tháng 8 năm 2021, Lê Hoàng C đang ở nhà thì có Lê Trường G điều khiển xe máy Honda Vision đến nhà C chơi, sau đó G rủ C đi lòng vòng trên phố xem có tài sản sơ hở sẽ cướp giật. C đồng ý, G dùng khẩu trang che BKS chở C đi lòng vòng trên các tuyến phố. Đến 14 giờ 00 cùng ngày, G và C đi đến đoạn phố Đội Cấn hướng về phố Lê Hồng Phong thì phát hiện chị Bùi Thị Thanh U, sinh năm 1990; nơi cư trú: quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đang ngồi trên xe máy trước cửa nhà quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. G và C quan sát thấy chị U đang sử dụng điện thoại, thấy có điều kiện cướp giật, G điều khiển xe vòng lại, dừng cách một đoạn và nói “anh xuống xe lấy điện thoại của con bé kia”, C hiểu ý đi bộ tiếp cận chị U từ phía sau, khi áp sát C nhanh chóng dùng tay giật mạnh điện thoại của chị U, chị U chạy theo giằng lại điện thoại nhưng không được. C gạt tay khiến chị U ngã ra đường và cầm điện thoại chạy tới chỗ G đang chờ sẵn ngồi lên xe, G điều khiển xe tẩu thoát theo hướng phố Đội Cấn - Lê Hồng Phong rồi cùng nhau đến phố Đặng Dung bán chiếc điện thoại cướp giật được cho anh Vũ Hồng T làm nghề mua, bán điện thoại cũ tại địa chỉ phố Đặng Dung, được số tiền 700.000 đồng. Sau đó, G và C sử dụng số tiền trên đi mua ma túy và chia nhau sử dụng hết. Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải G và thu hồi được chiếc điện thoại trên từ anh Vũ Hồng T.
Khoảng 19 giờ 00 ngày 31 tháng 8 năm 2021, G đang ở nhà thì có Lê Hoàng C gọi điện thoại rủ đi lòng vòng xem có ai có điện thoại sơ hở thì chiếm đoạt. G đồng ý và điều khiển xe máy Honda Vision (dùng khẩu trang xe BKS) đến nhà đón C. G chở C đi lòng vòng trên các tuyến phố, khoảng 20 giờ 00 cùng ngày G, C đi đến phố Đội Cấn đến đoạn giao cắt với phố Văn Cao, thì cả hai phát hiện chị X điều khiển xe máy đi một mình theo chiều ngược lại. G và C phát hiện tại túi quần sau bên phải của chị X đang để 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus, do điện thoại lộ ra bên ngoài. C ra hiệu cho G bám theo, G hiểu ý điều khiển xe vòng quay lại, bám theo phía sau chị X. Chị X phát hiện có người bám theo nên sợ hãi, vòng xe đi vào ngõ trên phố Đội Cấn để né tránh, đi được khoảng 10m thì dừng xe lại. G vẫn tiếp tục bám theo sau chị X đi vào trong ngõ. Chị X sợ hãi nên vòng xe quay ra phố Đội Cấn, đi về hướng phố Giang Văn Minh, G vẫn bám sát phía sau. Khi chị X đi đến đoạn phố Đội Cấn, do không làm chủ được tốc độ đã đâm vào xe máy đi cùng chiều phía trước và bị ngã ra đường. G thấy vậy liền dừng xe lại, C xuống xe tiếp cận chị X đang bị ngã ngồi dưới nền đường. Lúc này, có một số người dân chạy đến hỗ trợ chị X. C nhanh chóng dùng tay phải giật chiếc điện thoại để trong túi quần sau của chị X. Chị X đã quan sát được hành vi của C, liền hô hoán đồng thời chỉ tay về phía C. C chạy tới chỗ G, ngồi lên phía sau xe, G hiểu ý liền tăng ga phóng nhanh về hướng phố Lê Hồng Phong để tẩu thoát. Khi tẩu thoát, G thấy có người điều khiển xe máy truy đuổi phía sau, khi đến đoạn giao cắt phố Lê Hồng Phong và Chu Văn An thì có người đuổi kịp vượt ngang qua xe của G bên trái, dùng chân đạp vào xe khiến G loạng choạng tay lái ngã ra đường, G bị người dân giữ lại, còn C cầm điện thoạt giật được chạy thoát. Đến ngày 23 tháng 9 năm 2021, Lê Hoàng C đến Công an quận Ba Đình “đầu thú” và giao nộp chiếc điện thoại cướp giật được của chị X.
Tại Kết luận định giá tài sản số 149/KLĐG-HĐĐGTS ngày 05 tháng 10 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND quận Ba Đình kết luận: 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Realme 3 màu tím - đỏ, Imei1: 869566046683835, Imei2: 869566046683827 đã qua sử dụng có trị giá 700.000 đồng; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 7 Plus mầu trắng đã qua sử dụng có trị giá 2.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản cướp giật được là 2.700.000 đồng.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 84/2022/HSST ngày 03/06/2022 Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đã quyết định:
Áp dụng: Khoản 1 điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g,h khoản 1 điều 52; điều 38; điều 56 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Hoàng C 04(bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 869/2017/HSPT ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là 15 (mười lăm) năm 07 (bảy) tháng 03 (ba) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 9 năm 2021.
Ngoài ra bản án còn quyết định hình phạt của bị cáo khác trong vụ án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình có quyết định kháng nghị số 04/QQĐ-VKSBĐ đề nghị tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng điểm i khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Hoàng C và áp dụng mức hình phạt tử 05 đến 06 năm tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo không có ý kiến gì, đề nghị tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:
Căn cứ lời khai của các bị cáo trong vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ thì tòa án sơ thẩm đã xét xử Lê Hoàng C với tội danh: “Cướp giật tài sản” là đúng. Tuy nhiên căn cứ nhân thân của bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này xác định là tái phạm nguy hiểm, tòa án sơ thẩm xử bị cáo theo khoản 1 điều 171 Bộ luật hình sự là chưa chính xác. Vì vậy kháng nghị của Viện kiểm sát quận Ba Đình là có căn cứ, đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm của tòa án nhân dân quận Ba Đình, áp dụng điểm i khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự, xử bị cáo từ 05 đến 06 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Căn cứ lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân quận Ba Đình đã xét xử bị cáo Lê Hoàng C và Lê Trường G tội danh “Cướp giật tài sản” theo điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình đối với bị cáo Lê Hoàng C, hội đồng xét xử thấy rằng:
Bị cáo Lê Hoàng C có nhân thân xấu, có nhiều tiền án tái phạm chưa được xóa án, lần phạm tội này xác định là tái phạm nguy hiểm. Tòa án sơ thẩm xác định bị cáo chỉ tái phạm là chưa chính xác, dẫn đến việc áp dụng không đúng khung hình phạt đối với bị cáo. Hành vi của bị cáo Lê Hoàng C phải áp dụng theo điểm i khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên về hình phạt căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, trị giá tài sản cướp giật, hậu quả đã được khắc phục, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì hình phạt 04 năm tù đối bị cáo là phù hợp, cần giữ nguyên như bản án sơ thẩm đã quyết định.
Vì vậy có căn cứ để chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, sửa bản án sơ thẩm của tòa án quận Ba Đình về khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo Lê Hoàng C theo điểm i khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm a khoản 2 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.
- Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đối với bị cáo Lê Hoàng C. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 84/2022/HSST ngày 03/6/2022 của Tòa án nhân dân quận Bà Đình, thành phố Hà Nội.
Áp dụng: Điểm i khoản 2 điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38; điều 56 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Hoàng C 04(bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp với hình phạt còn lại chưa chấp hành của bản án số 203/2017/HSST ngày 19/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án số 869/2017/HSPT ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 15 (mười lăm) năm 07 (bảy) tháng 03 (ba) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 9 năm 2021.
- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 788/2022/HS-PT
Số hiệu: | 788/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về