Bản án về tội cướp giật tài sản số 74/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Trực Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 69/2022/ HSST ngày 17 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2022/HSST-QĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Vũ Duy T - Sinh năm: 1980 tại Nam Định; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Xóm 6, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Vũ Văn K (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị N; Có vợ là: Nguyễn Thị Nh; Con: Có 02 con lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2009.Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 26/9/2011, TAND thành phố Nam Định xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .

Bị cáo tạm giữ từ 21/4/2022; bị tạm giam từ ngày 29/4/2022 đến nay. Có mặt.

Bị hại Lê Thị T - Sinh năm 1960; Ông Đông Văn T1 - Sinh năm 1959 Cùng trú tại thôn 5, làng T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/4/2022, Công an xã Trực Khang, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định tiếp nhận đơn trình báo của bà Lê Thị T về việc ngày 21/4/2022 bà bị một nam thanh niên lấy mất 01 chiếc điện thoại di động. Ngày 21/4/2022 Công an huyện Nam Trực giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Vũ Duy T và thu giữ trên người T 01 điện thoại Nokia 105, model TA-1203 gắn thẻ sim 034707xxxx, T khai đã lấy của bà Lê Thị T. CQĐT Công an huyện Nam Trực đã chuyển tài liệu và vật chứng cho CQĐT Công an huyện Trực Ninh điều tra giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, xác định: Buổi sáng ngày 21/4/2022, Vũ Duy T điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM Attila BKS 18P9 - xxxx đi từ nhà đến các trục đường thuộc huyện Trực Ninh, vừa đi vừa quan sát tìm kiếm có nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến đường tỉnh lộ 488B thuộc xã T, T điều khiển xe đi vào đường dong thôn 5, làng T, xã T thì nhìn thấy vườn trồng cây hoa lan của chị Dương Thị N, T dừng ở ngoài đường, trước cổng nhà vợ chồng bà Lê Thị T và ông Đồng Văn T1. Lúc này bà T và ông T1 đang đứng ở sân. T đi bộ vào sân đứng chỉ tay về phía vườn lan nhà chị N và nói với bà T: “Cô biết nhà bán lan kia không” và hỏi xin số điện thoại của chủ nhà. Bà T nói: “Đấy là nhà cháu cô, cô không có số nó, nhưng có số chị nó nhà gần đấy”. T nhờ bà T gọi điện liên hệ với chị N để hỏi mua lan. Bà T đi vào bếp lấy chiếc điện thoại Nokia 150 đi ra sân định gọi cho chị gái chị N là Dương Thị Th để hỏi cho T thì T nói: “Thôi không cần nữa để cháu ra trực tiếp” và T lên xe máy đi ra nhà chị Th. Đến nhà chị Th, T vào nhà gặp chị Đồng Thị Bích T là con chị Th hỏi: “Chị có số điện thoại nhà bán lan không”. Chị T hiểu ý T hỏi số điện thoại của chị N, nên đọc số điện thoại của chị N cho T. T nói với chị T điện thoại bị hết pin, nhờ chị T bấm hộ. Chị T bấm điện thoại gọi cho chị N và đưa điện thoại cho T nói chuyện. T cầm điện thoại lên tai nghe và đi dần ra phía cửa nhà, chị T cũng đi ra ngay phía sau. Đi đến trước cửa nhà thì đúng lúc này chị N đi xe máy về dừng xe trước cửa nhà. Chị T nói với T “Anh ơi cô bán lan đây” và cũng nói luôn với chị N có khách hỏi mua lan. T vẫn cầm điện thoại của chị T đi sang trước nhà chị N hỏi mua lan Phi điệp nhưng chị N nói không có. Chị T đưa tay yêu cầu T trả lại điện thoại, T đưa trả lại điện thoại cho chị T rồi lên xe máy quay lại nhà bà T. T dựng xe máy ở ngoài đường dong, đầu xe máy quay ra hướng đường TL488B rồi đi bộ vào sân nhà bà T, gặp bà T và ông T1 đang ở hiên trước gian bếp giáp nhà cách cổng ra vào khoảng 10m. T nói dối với bà T: “Cháu không gặp, cho cháu mượn điện thoại cháu gọi”. Bà T nghĩ T vừa ra nhà chị N nhưng không gặp và hỏi mượn điện thoại để gọi cho chị N thật, nên đã đồng ý và đi vào nhà lấy chiếc điện thoại Nokia 105 đưa cho T và nói: “Cháu tìm tên Th”. T cầm điện thoại rồi đi nhanh ra phía cổng vừa đi vừa giả vờ bấm tìm số điện thoại sau đó đưa lên tai nghe. T giả vờ nói: “Chị cứ chờ em, em xuống mua nhiều đấy”.

Thấy T đi nhanh ra, bà T nghi ngờ T bỏ đi để chiếm đoạt chiếc điện thoại, bà T nói với ông T1: “Anh ra xem mà lấy điện thoại, chẳng lẽ nó lừa mình lấy cái điện thoại đen trắng à”. Ông T1 đi theo T ra đến giữa sân, thì T đã nhanh chóng lên xe nổ máy cầm theo chiếc điện thoại của bà T bỏ chạy ra phía đường TL488B. Bà T đứng dậy đi theo và gọi to: “Sao không trả điện thoại cho cô à”. T vừa phóng xe tẩu thoát vừa nói lại: “Cháu xuống nhà cô kia rồi cháu trả”. T đi xe máy đi ra khỏi đường dong rẽ trái đi về phía UBND xã Trực Hưng ngược với hướng đường ra nhà chị N rồi đi về nhà.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên Vũ Duy T còn có hành vi cướp giật điện thoại di động của cháu Vũ Thị Hồng N, sinh năm: 2012 tại thôn X, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định vào ngày 20/4/2022. Cơ quan CSĐT Công an huyện Nam Trực đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và lệnh tạm giam đối với Vũ Duy T về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Công an huyện Nam Trực đã tiến hành thu giữ của Vũ Duy T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, model TA-1203 gắn thẻ sim 034707xxxx. Ngày 09/5/2022 đã bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Trực Ninh để xử lý theo quy định.

Bản kết luận định giá tài sản số 10 ngày 02/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Trực Ninh đã kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, model TA-1203 mã IMEI 356107164705819 gắn thẻ sim số thuê bao 034707xxxx có giá trị tại thời điểm ngày 21/4/2022 là 150.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 68/QĐ-KSĐT ngày 16 tháng 8 năm 2022 VKSND huyện Trực Ninh đã truy tố bị cáo Vũ Duy T về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 BLHS.

Đại diện VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Vũ Duy T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Vũ Duy T từ 24 - 30 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và xin HĐXX giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm được đoàn tụ cùng gia đình, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai lưu trong hồ sơ vụ án. Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Về hình phạt đề nghị xử lý nghiêm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đối với vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ trực tiếp xâm hại tới quyền sở hữu của công dân - là quan hệ xã hội thuộc khách thể đã được BLHS ghi nhận và bảo vệ.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc cướp giật tài sản người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, điều đó chứng tỏ bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận có ý thức chiếm đoạt tài sản để lấy tiền sử dụng cá nhân, khi quay lại nhà bị hại, bị cáo để xe ngoài đường đã mở sẵn chìa khóa điện nhằm mục đích tẩu thoát khi chiếm đoạt được tài sản.

Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản ghi lời khai người làm chứng, bị hại; trích xuất dữ liệu Camera; Kết luận định giá tài sản.

Từ những chứng cứ nêu trên - HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi lợi dụng sơ hở của người khác nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của bị cáo Vũ Duy T ngày 21/4/2022 đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” - Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS.

Ngoài hành vi nêu trên, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bị cáo còn bị CQCSĐT Công an huyện Nam Trực khởi tố về hành vi “Cướp giật tài sản” theo khoản 2 Điều 171 BLHS.

Vì vậy, để đảm bảo trật tự pháp luật, phòng ngừa chung tình hình tội phạm, việc áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là điều cần thiết.

Việc VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo về hành vi “Cướp giật tài sản” tại bản Cáo trạng số 68/CT-VKS ngày 16 tháng 8 năm 2022, là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự huyện Trực Ninh xác định là vụ án được xử lý theo trình tự án trọng điểm.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, xét nhân thân bị cáo - HĐXX thấy cần thiết phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tiếp tục cách ly bị cáo một thời gian mới đảm bảo việc giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục phòng ngừa chung tình hình tội phạm như đề nghị của Đại diện VKS là phù hợp.

[3] Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc tới tình tiết: Bị cáo tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải - Để giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để vừa thể hiện tính nhân đạo, công bằng của pháp luật, vừa đảm bảo tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.

[5] Vật chứng:

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, model TA-1203 gắn thẻ sim 034707xxxx thu giữ của T quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bà Lê Thị T nên CQĐT Công an huyện Trực Ninh đã trả lại cho bà T.

Đối với xe máy nhãn hiệu SYM Attila màu trắng, biển số 18P9-xxxx do CQĐT Công an huyện Nam Trực thu giữ. Qua xác minh là tài sản của chị Nguyễn Thị Nhung (là vợ của T). Việc T sử dụng chiếc xe máy trên làm phương tiện đi thực hiện hành vi phạm tội ngày 20/4/2022 tại huyện Nam Trực và ngày 21/4/2022 tại huyện Trực Ninh, chị Nhung không biết nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Nam Trực đã trả lại cho chị Nhung.

Xét thấy việc xử lý vật chứng của CQCSĐT Công an huyện Trực Ninh, huyện Nam Trực là đúng quy định của pháp luật nên HĐXX không xem xét.

[6] Trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, bà Lê Thị T không có đề nghị bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Tuyên bố bị cáo Vũ Duy T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt Bị cáo Vũ Duy T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 4 năm 2022.

2. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Vũ Duy T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo Vũ Duy T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về