Bản án về tội cướp giật tài sản số 176/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 176/2023/HS-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 165/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Vũ Minh Q, sinh năm 2004; HKTT: 21/1/1 P, phường L, thị xã S, Hà Nội; Nơi ở hiện nay: 142 T, phường T, quận E, Hà Nội; Nghề nghiệp: Sinh viên; Văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Minh D và con bà Nguyễn Thị T; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. (Theo Danh chỉ bản số 104 lập ngày 21/02/2023 tại Công an quận Hai Bà Trưng). Bị cáo bị bắt ngày 14/02/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Trịnh Quốc N, sinh năm 2004; HKTT: phố D, phường D, thị xã S, Hà Nội; Nơi ở hiện nay: P303 số 11 ngõ 36 L, phường C, quận E, Hà Nội; Nghề nghiệp: Sinh viên; Văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trịnh Quốc T và con bà Nguyễn Thị T; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. (Theo Danh chỉ bản số 105 lập ngày 21/02/2023 tại Công an quận Hai Bà Trưng). Bị cáo bị bắt ngày 14/02/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Đồng Thị V, sinh năm 1991; Địa chỉ: P502 Tòa JFC số 164 K, phường N, quận T, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00h45’ ngày 13/02/2023 do cần tiền tiêu xài Trịnh Quốc N và Vũ Minh Q nảy sinh ý định điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS 29U1- xxx.43 đi qua các tuyến phố nhằm tìm kiếm tài sản sơ hở để thực hiện hành vi cướp giật tài sản. N lấy khẩu trang y tế che biển kiểm soát để tránh bị phát hiện.

Khoảng 01h20′ cùng ngày, Q điều khiển xe máy chở N đi trên cầu Vĩnh Tuy theo hướng về phía Long Biên thì N nhìn thấy chị Đồng Thị V (sinh năm 1991, địa chỉ: P502 toà JFC số 164 K, phường N, quận T, Hà Nội) điều khiển xe máy Honda Vision BKS 28H xxx.17, trên vai đeo chéo 01 chiếc túi xách màu đen đi ngược chiều về hướng phố Minh Khai. N chỉ tay về phía chị V bảo Q quay đầu xe để giật túi xách của chị V. Sau đó, Q vòng xe lại rồi đi phía sau, cùng chiều với chị V thì N nói với Q: “Đi sát vào để giật túi”. Khi đến trước số 12A Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Q điều khiển xe máy áp sát phía bên trái chị V, N dùng tay phải giật mạnh chiếc túi xách của chị V làm quai đeo của túi xách bị đứt. Q phóng xe bỏ chạy lên đường trên cao trên phố Minh Khai hướng về phía Ngã Tư Vọng. Chị V điều khiển xe máy đuổi theo sau và hô hoán người dân xung quanh hỗ trợ. Cùng lúc này, anh Trần Minh V1 (sinh năm:1993, địa chỉ: 62 tổ 25 phường H, quận H, Hà Nội) đang dừng xe ô tô ở trước số 461 Minh Khai nghe thấy chị V hô hoán nên đã điều khiển xe ô tô đuổi theo Q và N. Khi anh V1 đuổi theo đến trước số 145 Lê Thanh Nghị, phường Đồng Tâm, Hai Bà Trưng, Hà Nội thì anh V1 đuổi kịp và ép sát vào xe Vision của N và Q khiến xe đổ xuống đường. N bỏ chiếc túi xách vừa cướp giật được ở chỗ để chân của xe máy rồi cùng Q bỏ chạy vào trong ngõ. Sau khi chạy được khoảng 200 mét, N và Q quay lại trước số 145 Lê Thanh Nghị để lấy chiếc xe máy Vision thì bị Công an phường Đồng Tâm đưa về trụ sở làm việc. Ngoài ra, cơ quan công an còn thu giữ 01 xe máy Honda Vision BKS 29U1- xxx.43, 01 chiếc túi xách bên trong có 01 Iphone 13 Pro màu xanh và số tiền 1.660.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 51/KL-HĐ ĐGTS ngày 15/3/2023 kết luận: 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro, số máy: MLR93LL/A, 256Gb, seri: N3QYMFXVGG, không có hoá đơn chứng từ, đã qua sử dụng trị giá 21.000.000 đồng; 01 chiếc túi xách nữ màu đen, chất liệu da tổng hợp, kích thước khoảng 13x18cm, có dây đeo, đã sử dụng từ tháng 6/2022, không có hoá đơn, chứng từ trị giá 30.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 21.030.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Trịnh Quốc N và Vũ Minh Q khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại bản cáo trạng số 161/CT/VKS-HS ngày 26/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng, các bị cáo Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N bị truy tố về tội Cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là đúng. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình và đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Minh Q từ 30- 36 tháng tù.

Áp dụng điểm d khoản 2 điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trịnh Quốc N từ 30- 36 tháng tù.

Về bồi thường dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét.

Tại lời nói sau cùng, Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ tài liệu đồ vật và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01h20’ ngày 13/02/2023 tại trước số 12A Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Vũ Minh Q điều khiển xe máy chở Trịnh Quốc N để thực hiện hành vi cướp giật 01 chiếc túi xách bên trong có 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 1.660.000 đồng của chị Đồng Thị V. Tổng trị giá tài sản là 22.690.000 đồng (Hai mươi hai triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).

Hành vi nêu trên của các bị cáo Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình lo lắng cho nhân dân. Mặc dù nhận thức rõ hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhận thức rõ việc sử dụng xe máy để thực hiện hành vi là gây nguy hiểm đến tính mạng của người bị hại nói riêng và những người dân tham gia giao thông trên đường nói chung nhưng vì muốn có tiền tiêu xài và ý thức coi thường pháp luật mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó cần thiết phải xử lý các bị cáo bằng pháp luật hình sự với mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ sức cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt và làm bài học răn đe người khác.

Tuy nhiên khi lượng hình có xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả (theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0008744 ngày 16/8/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng) nên căn cứ điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Xét thấy các bị cáo đều là những thanh niên mới trưởng thành, suy nghĩ còn bồng bột, nhân thân tốt, thực sự ăn năn hối cải, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng đủ giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung bằng tiền được quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Xét hoàn cảnh gia đình các bị cáo có nhiều khó khăn, bản thân các bị cáo đang đi học chưa có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về bồi thường dân sự: Người bị hại chị Đồng Thị V đã được nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên không xét.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro màu xanh, 01 chiếc túi xách màu đen đã qua sử dụng và số tiền 1.660.000 đồng, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Đồng Thị V nên Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả tài sản cho chị Đồng Thị V là có căn cứ.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision mang biển kiểm soát 29U1- xxx43: Quá trình điều tra xác định là tài sản của Vũ Minh Q mua và đăng ký chính chủ từ ngày 14/4/2022. Q đã sử dụng để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Vũ Minh Q 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2023;

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Trịnh Quốc N 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2023;

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision- biển kiểm soát 29U1- xxx43 (Vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng số TV:136/23 ngày 03/4/2023).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Các bị cáo Vũ Minh Q, Trịnh Quốc N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 176/2023/HS-ST

Số hiệu:176/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về