TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐP, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 20/07/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 7 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm là Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội và điểm cầu thành phần là Trại tạm giam số 1, Công an Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2023, đối với:
- Bị cáo: Đỗ Mạnh Th, sinh năm 2003 tại huyện ĐA, Hà Nội; nơi cư trú: Tổ 28 phường CL, thành phố LC, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Mạnh T, con bà Đỗ Thị Việt A; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; danh bản, chỉ bản số 156 do Công an huyện ĐP lập ngày 13/4/2023; tạm giữ, tạm giam: từ ngày 04/4/2023 đến nay; có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Thiều Quang D, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số nhà 56 phố Nguyễn Thái Học, thị trấn Ph, huyện ĐP, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án: Anh Lê Quốc V, sinh năm 1983; Địa chỉ: Số 80 đường Cầu Vồng, phường Đức T, quận BTL, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 10 phút ngày 25/9/2022, Đỗ Mạnh Th đến cửa hàng cho thuê xe máy “VB Motor” tại đường Cầu Vồng, phường Đức T, quận BTL, Hà Nội thuê 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS: 29V3-99xx để đi đến nhà bạn ở huyện ĐP chơi. Khi đi đến khu vực cổng chào huyện ĐP, Th không liên lạc được với bạn nên vào một nhà nghỉ để ngủ qua đêm. Đến khoảng 07 giờ 00 phút sáng ngày 26/9/2022, Th ngủ dậy và điều khiển xe máy đi đến khu vực gần “tượng đài Phụ nữ Ba đảm đang” thị trấn Ph thì thấy cửa hàng mua bán điện thoại “D Mobile” tại số 56 phố Nguyễn Thái Học, thị trấn Ph, ĐP, Hà Nội mở nên đi vào để xem điện thoại. Khi vào cửa hàng, Th hỏi chủ cửa hàng là anh Thiều Quang D cho xem chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone 12 Pro Max. Anh D lấy 01 chiếc điện thoại iPhone 12 Pro Max màu xanh, bản 128Gb để trong quầy đưa cho Th xem. Sau đó, anh D ngồi sửa chữa điện thoại. Thấy anh D chăm chú làm việc, không để ý đến mình, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại. Th bỏ điện thoại vào túi quần rồi chạy ra vị trí để xe máy thì bị anh D đuổi theo giữ lại được. Th vùng chạy, bỏ lại chiếc xe máy. Sau đó, Th đi xe buýt từ thị trấn Ph về khu vực gần Học viện Tài chính và đi bộ đến cửa hàng xe máy “VB Motor”. Th nói dối là chiếc xe mà Th thuê tại đây bị tai nạn nặng không sửa chữa được nên muốn trả tiền để mua lại chiếc xe. Chủ hiệu cầm đồ là anh Lê Quốc V đã đồng ý bán lại chiếc xe cho Th với giá 12.000.000đ (mười hai triệu đồng). Th trả 8.000.000 đồng bằng tiền mặt và chuyển khoản số tiền 4.000.000 từ tài khoản số 10255282xx mở tại ngân hàng Vietcombank của Th vào tài khoản số 88201115xx89 mở tại ngân hàng MB Bank của anh Lê Quốc V. Quản lý cửa hàng là anh Hoàng Tuấn A đã viết giấy mua bán xe kèm giấy đăng ký xe đưa cho Th. Sau đó Th rời khỏi cửa hàng và bỏ trốn đến ngày 04/4/2023, Đỗ Mạnh Th đến trụ sở Công an huyện ĐP đầu thú.
Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Mạnh Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Chiếc điện thoại Iphone 12 Promax Th đã đánh rơi trong khi bỏ chạy nên Th không giao nộp được cho cơ quan điều tra.
Kết luận định giá tài sản số 139 ngày 24/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện ĐP, xác định: Chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone 12 Pro Max màu xanh, bản 128Gb, số imei 1: 350408483165909, số imei 2: 35048483247798 có trị giá 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).
Bản Cáo trạng số 60/CT- VKS- ĐP ngày 15 tháng 6 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, Thành phố Hà Nội truy tố Đỗ Mạnh Th về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đỗ Mạnh Th khai nhận hành vi phạm tội như đã khai trong quá trình điều tra. Th khai, do điện thoại của Th đang dùng đã cũ nên Th vào cửa hàng điện thoại để tham khảo các dòng máy mới trước khi mua. Khi đang xem chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, thấy chủ quán tập trung làm việc không để ý đến mình nên Th đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại. Vì thế Th bỏ chiếc điện thoại vào túi quần đang mặc và định nhanh chóng bỏ đi trước khi chủ quán kịp phát hiện nhưng khi Th vừa ngồi lên xe, chưa kịp nổ máy thì đã bị chủ quán chạy ra kéo xe lại. Th đành bỏ lại xe để chạy thoát. Sau khi phải để lại xe máy để bỏ chạy, không có xe để mang trả cửa hàng cho thuê nên Th nói dối là xe bị tai nạn, không sửa chữa được và xin mua lại chiếc xe với giá 12.000.000 đồng. Tiền mua xe là tiền của bố, mẹ Th gửi để nộp học phí nhưng Th chưa kịp nộp.
Trong thời gian bỏ trốn, bị cáo đã suy nghĩ và nhận thức hành vi của mình là sai trái nên ra đầu thú để mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình, tiếp tục học tập để trở thành người có ích.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP tại phiên tòa trình bày luận tội giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Không đề nghị phạt bổ sung đối với bị cáo. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, biển kiểm soát 29V3- 99xx, số khung: RHHC09016Y126567, số máy: HC09E6126598, 01 chiếc chìa khóa xe máy, 02 chiếc chìa khóa Việt Tiệp màu trắng và 01 chiếc chìa khóa từ xe máy Honda.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên và Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự tố tụng và các căn cứ để ban hành các văn bản và quyết định tố tụng đúng theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với đơn trình báo và lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 7 giờ sáng ngày 26/9/2022, Đỗ Mạnh Th điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, biển kiểm soát 29V3-99xx, số khung: RHHC09016Y126567, số máy: HC09E6126598 của Th thuê của anh Lê Quốc V, chủ cửa hàng cho thuê xe máy ở phường Đức T, quận BTL, Hà Nội, đi đến cửa hàng điện thoại di động “D Mobile” tại số 56 phố Nguyễn Thái Học, thị trấn Ph, ĐP, Hà Nội của anh Thiều Quang D để xem điện thoại. Anh D đưa cho bị cáo xem chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max trị giá 15.000.000 đồng. Trong khi chờ bị cáo xem, anh D ngồi sửa điện thoại. Thấy anh D sơ hở, bị cáo liền nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên. Bị cáo cho chiếc điện thoại vào túi quần đang mặc trên người, chạy ra chỗ để xe máy, định nổ máy đi thì bị anh D phát hiện, đuổi theo giữ lại. Bị cáo bỏ chạy để lại chiếc xe máy. Quá trình bỏ chạy bị cáo đã đánh rơi chiếc điện thoại chiếm đoạt được. Sau khi chạy thoát, bị cáo đã đến cửa hàng thuê xe máy và hỏi mua lại chiếc xe của anh V với giá 12.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo bỏ trốn. Ngày 04/4/2023, bị cáo ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình.
[3] Hành vi của Đỗ Mạnh Th lợi dụng sơ hở của anh D, công khai chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trị giá 15.000.000 đồng và bỏ chạy như nêu trên đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh Thiều Quang D được Nhà nước bảo vệ đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là sinh viên, có trình độ văn hóa và nhận thức pháp luật đầy đủ nhưng ý Th tu dưỡng bản thân chưa cao. Chỉ vì một phút không làm chủ được bản thân, bị cáo nảy sinh lòng tham muốn chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình và tự đến cơ quan điều tra để đầu thú. Sau khi đầu thú, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực tác động đến gia đình để bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; bị hại đã viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, bị cáo chấp hành chính sách pháp luật và thực hiện tốt các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi học tập. Bị cáo lớn lên trong môi trường gia đình có truyền thống cách mạng. Ông, bà nội, ngoại của bị cáo đều được tặng thưởng Huân, huy chương kháng chiến, có người là liệt sỹ. Bố, mẹ của bị cáo đều là Đảng viên. Việc bị cáo phạm tội là do nhất thời nảy sinh. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và có nhiều các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Bộ luật hình sự, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do đó, Hội đồng xét xử cân nhắc thấy thời gian bị cáo bị tạm giam cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên thấy không nhất thiết phải tiếp tục cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà có thể cho bị cáo được hưởng án treo và trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa để bị cáo được trở về cải tạo, giáo dục dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục việc học tập đang còn dang dở tại trường Đại học, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đồng thời cũng không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bị cáo đang là sinh viên, chưa có thu nhập ổn định không có điều kiện để thi hành án nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, biển kiểm soát 29V3-99xx, số khung: RHHC09016Y126567, số máy: HC09E6126598 mà bị cáo sử dụng là của anh Lê Quốc V cho bị cáo thuê. Anh V không biết bị cáo sử dụng chiếc xe được thuê sau đó phạm tội nên lẽ ra chiếc xe sẽ được trả lại cho anh V. Tuy nhiên, sau đó bị cáo đã thỏa thuận trả tiền để mua lại chiếc xe của anh V và được anh V chấp nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe máy trên của bị cáo.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Thiều Quang D đã được bị cáo bồi thường toàn bộ giá trị chiếc điện thoại bị mất và không có yêu cầu đề nghị bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Mạnh Th 13 ( mười ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 26 (hai mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Cướp giật tài sản”.
2. Căn cứ vào khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Đỗ Mạnh Th nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Giao bị cáo Đỗ Mạnh Th cho Ủy ban nhân dân phường CL, thành phố LC, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, biển kiểm soát 29V3-99xx, số khung: RHHC09016Y126567, số máy: HC09E6126598 kèm theo một chiếc chìa khóa xe máy, đuôi chìa khóa bằng nhựa màu đen có dán băng dính, ghi số “77; 02 (hai) chiếc chìa khóa Việt Tiệp màu màu trắng và 01 (một) chiếc chìa khóa từ xe máy Honda, màu đen. (Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/7/2023 giữa Công an huyện ĐP với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP).
4. Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 62/2023/HS-ST
Số hiệu: | 62/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về