Bản án về tội cướp giật tài sản số 482/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 482/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 25/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 646/2019/HSST ngày 08/11/2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5611/2019/QĐXXST-HS ngày 11/11/2019, đối với bị cáo:

A; Sinh ngày 04 tháng 01 năm 1979, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú tại 160/4 B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp không; Trình độ học vấn lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn E và bà Lê F; Có vợ và 02 con, sinh năm 1999 và sinh năm 2003; Tiền sự: không

Tiền  án: Có 04 tiền án:

- Ngày 04/4/2000, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” (Bản án số 49/HSST) chấp hành xong hình phạt ngày 15/4/2001.

- Ngày 16/11/2004, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 1958/HSST) chấp hành xong hình phạt ngày 22/6/2007.

- Ngày 19/8/2010, bị Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, (Bản án số 87/2010/HSST) chấp hành xong hình phạt ngày 8/9/2014.

- Ngày 14/8/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, (Bản án số 246/2015/HSST) chấp hành xong hình phạt ngày 20/01/2019.

Tạm giam: Ngày 12/3/2019, có mặt.

Bị  hại: G, sinh năm 1954.

Thường trú: 217 S 1 – 01-61 S(460217).

Chỗ ở: Khách sạn W số 255-257 H, phường I, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 12/3/2019, bị cáo A điều khiển xe máy hiệu Yamaha Nouvo, biển số 55P6-xxxx lưu thông trên đường T, Quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh, hướng từ đường Tản Đà về đường Lương Nhữ Học. Khi đi đến trước nhà số 430 T, Phường 11, Quận 5, bị cáo thấy bà G và anh Kđang đi bộ trên lề đường, trên cổ bà G có đeo sợi dây chuyền vàng, nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt sợi dây chuyền của bà G. Bị cáo chạy xe ngược chiều áp sát vào bên trái bà G, dùng tay trái giật sợi dây chuyền của bà G, làm sợi dây chuyền bị đứt rơi lại 01 đoạn. Giật xong bị cáo tăng ga bỏ chạy, nhưng bị anh K nắm baga xe kéo lại làm cho bị cáo và xe bị ngã xuống đường. Bị cáo bỏ lại xe chạy bộ để tẩu thoát và vứt lại sợi dây chuyền. Lúc này tổ công tác của đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 5 đang đi tuần tra phát hiện bị cáo có hành vi cướp giật nên đuổi theo bắt giữ bị cáo cùng vật chứng giao cho Công an Phường 11, Quận 5 xử lý.

Theo Kết luận định giá tài sản số 6398/KL-HĐĐGTS ngày 17/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Đoạn dây chuyền vàng dài 07cm, trọng lượng 0,8256g, loại vàng 22 k, trị giá 734.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo khai: Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/3/2019, bị cáo mặc áo Grab màu xanh, điều khiển xe máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 55P6-xxxx đi từ Quận 8 đến nhà bà con ở Quận 5 chơi. Khi đi đến trước nhà số 430 T, Phường 11, Quận 5, bị cáo thấy một người phụ nữ trong nhóm người nước ngoài, trên cổ có mang dây chuyền vàng đang đi trên lề đường. Bị cáo cho xe quay lại chạy áp sát người phụ nữ này và dùng tay trái giật sợi dây chuyền, rồi tăng ga bỏ chạy nhưng bị người thanh niên đi trong nhóm người nước ngoài trên đạp hay nắm baga xe kéo lại, làm bị cáo té ngã xuống đường. Bị cáo đứng dậy ném lại đoạn dây chuyền rồi bỏ chạy về hướng đường Lương Nhữ Học và khi chạy vào đường Phú Định thì bị lực lượng đặc nhiệm đuổi theo bắt được, đưa về công an Phường 11, Quận 5 xử lý.

Bị hại vắng mặt nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau:

Vào khoảng 11 giờ 15 phút ngày 12/3/2019, bà cùng gia đình đi bộ trên vỉa hè đường T. Khi đến đoạn trước nhà số 430 đường T, Phường 11, Quận 5 thì có người đi xe gắn máy ngược chiều đi áp sát vào người bà, rồi giật sợi dây chuyền của bà đeo trên cổ. Lúc này con trai bà là K nắm baga xe kéo lại, làm cho người đó ngã xuống đường và bỏ xe chạy bộ. Bà thấy một đoạn ngắn dây chuyền của bà rơi trên đường nên nhặt lấy, đưa cho K. Sau đó khoảng 10 phút thì Công an thông báo cho bà biết là người giật dây chuyền của bà đã bị bắt.

Người làm chứng Kvắng mặt nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Vào khoảng 11 giờ 15 ngày 12/3/2019, anh và mẹ là bà G cùng gia đình đi bộ trên đường, trước nhà số 430 T, Phường 11, Quận 5. Anh thấy bị cáo đi xe gắn máy ngược chiều, khi đi ngang qua mẹ của anh thì bị cáo dùng tay trái giật sợi dây chuyền của mẹ anh đeo trên cổ. Thấy vậy anh nắm baga xe của bị cáo kéo lại, làm cho bị cáo ngã xuống đường. Bị cáo bỏ xe chạy bộ, anh đứng tại chỗ xe bị cáo, còn mẹ anh thì nhặt lấy một đoạn dây chuyền bị đứt rơi trên đường đưa cho anh, sau đó khoảng 10 phút thì Công an thông báo cho biết đã bắt được bị cáo.

Người làm chứng Nguyễn Văn Phú và Lưu Chí Hùng vắng mặt nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Các anh nghe tiếng tri hô cướp giật và thấy người mặc áo Grab xanh lá cây bỏ chạy thì các anh nghi ngờ nên đuổi theo và đến trước nhà số 5 Lương Nhữ Học thì bắt được và giao cho công an xử lý.

Bản Cáo trạng số 462/CTr-VKS-P2 ngày 01/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo A về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả. Do đó Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo A mức án từ 6 năm tù đến 7 năm tù.

Bị cáo không có tranh luận gì và trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị tòa xem xét, xử phạt bị cáo mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có căn cứ kết luận: Bị cáo A là người đã có hành vi sử dụng xe mô tô để đi cướp giật tài sản của người khác và đã cướp giật sợi dây chuyền của bà G tại trước nhà số 430 T, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 12/3/2019. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Cướp giật tài sản, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trước khi phạm vào tội này, bị cáo đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý và chưa được xóa án tích, nên hành vi của bị cáo còn phạm vào tình tiết định khung tăng nặng hình phạt “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét tính chất của vụ án do bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng, bởi nó không những xâm phạm đến tài sản của người khác, là một trong những khách thể quan trọng được Bộ luật Hình sự bảo vệ, mà còn gây mất an ninh, trật tự, an toàn trên đường phố. Bị cáo là người đã nhiều lần bị Tòa án xử tù về tội Cướp giật tài sản và thời gian mà bị cáo thụ hình tổng cộng là 13 năm, nhưng mới ra tù vào cuối tháng 01 năm 2019 thì ngày 12/3/2019 bị cáo đã thực hiện hành vi Cướp giật tài sản của bà G. Điều này chứng tỏ bị cáo là người khó cảm hóa, giáo dục, do đó mặc dù bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, nhưng hình phạt áp dụng cho bị cáo cũng phải nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cho bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vật chứng của vụ án:

- Đoạn dây chuyền vàng dài 07cm, trọng lượng 0,8256g, Cơ quan điều tra đã trả cho bị hại qua Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 xe máy hiệu Yamaha Nouvo, biển số 55P6-xxxx, bị cáo Hùng khai cầm cố của một thanh niên tên Tín (không rõ lai lịch). Qua xác minh xe máy trên do anh Lê Mạnh Vương L, sinh năm 1988, ở 72/36C1 H, Phường 15, quận Tân Bình đứng tên chủ sở hữu. Vào tháng 6/2015, anh L đã bán cho anh Nguyễn Thiện N sau đó anh N bán lại cho một người không rõ lai lịch. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có người đến liên hệ, nên cần đăng trên phương tiện truyền thông đại chúng trong vòng 03 tháng và hết thời gian này nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước, như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra bị hại khai mua sợi dây chuyền tại Singapore, với số tiền 340 đô la Singapore, có mua bảo hiểm tài sản nên chỉ yêu cầu cơ quan điều tra xác nhận để bị hại yêu cầu cơ quan bảo hiểm thanh toán lại. Bị hại không có ý kiến gì về yêu cầu bị cáo phải bồi thường, nên Tòa không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Mức hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng cho bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: A 6 (Sáu) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2019.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Đăng trên phương tiện truyền thông đại chúng trong vòng 03 tháng, nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc xe máy hiệu Yamaha Nouvo, biển số 55P6-xxxx.

(Vật chứng trên hiện Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ theo biên bản giao nhận tang tài vật số 78/20, ngày 19/11/2019).

Về án phí:

Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 25/11/2019). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 482/2019/HS-ST

Số hiệu:482/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về