Bản án về tội cướp giật tài sản số 443/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 443/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 503/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4839/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Phạm Thanh T; sinh năm: 1996, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: X/3 đường Đ, Phường 21, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn A và bà Nguyễn Thị Hồng H; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 26/4/2021 (có mặt tại phiên tòa).

2. Đoàn Trần Anh T1; sinh năm: 1998, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Y/24/10 đường N, Phường 7, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Lê T và bà Trần Thị H; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân:

+ Ngày 03/12/2014, bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 247/2014/HSST);

+ Ngày 18/5/2016, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, tổng hợp với hình phạt 02 năm 06 tháng tù của Bản án số 247/2014/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 năm tù (theo Bản án số 172/2016/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/9/2018;

Bị bắt, tạm giam ngày: 26/4/2021 (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

Ông Ji J.J, sinh năm: 1958 (quốc tịch: Hàn Quốc);

Nơi cư trú: phòng A, tầng B, chung cư Thái An 3, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh;

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều tối ngày 26/4/2021, bị cáo Phạm Thanh T điều khiển xe môtô hai bánh biển số 59S1-xxxxx chở bị cáo Đoàn Trần Anh T1 lưu thông trên đường Cộng Hòa thì nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản nên rủ bị cáo T1 cùng tham gia để bán lấy tiền tiêu xài và bị cáo T1 đồng ý. Khi đến trước hẻm 124 Cộng Hòa, Phường 4, quận Tân Bình (hướng từ Cộng Hòa ra Hoàng Văn Thụ), thì bị cáo T nhìn thấy ông Ji J.J đang trên lề đường sử dụng điện thoại nên chỉ cho bị cáo T1. Sau đó, bị cáo T điều khiển xe quay lại, chạy ngược chiều, áp sát vào ông Ji J.J để bị cáo T1 ngồi sau dùng tay phải chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trên tay ông Ji J.J rồi tăng ga xe bỏ chạy vào hẻm 124 Cộng Hòa. Lúc này, có người dân đi đường trông thấy sự việc nên đã tri hô và đuổi theo. Khi đến ngã tư đường Út Tịch - Cộng Hòa thì các bị cáo bị té xe, bị cáo T1 làm rơi chiếc điện thoại xuống đường, cả hai bị cáo bỏ xe chạy bộ vào nhà thi đấu của Siêu thị Vincom thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ, giao đến Công an Phường 4, quận Tân Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tài sản mà hai bị cáo đã chiếm đoạt của ông Ji J.J là một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Note 8 đã qua sử dụng, theo kết luận định giá thì tài sản này trị giá 4.910.000 đồng. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Thanh T, Đoàn Trần Anh T1 về hành vi chiếm đoạt tài sản. Tại cơ quan điều tra, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 339/CT-VKS-P2 ngày 05 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Phạm Thanh T, Đoàn Trần Anh T1 tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Trần Anh T1 từ 04 năm đến 05 năm tù; đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản thu giữ theo quy định. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Trần Anh T1 phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định vào khoảng 19 giờ 20 phút ngày 26/4/2021, tại trước hẻm số 124 Cộng Hòa, Phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo T đã có hành vi điều khiển xe chạy áp sát để bị cáo T1 ngồi sau dùng tay phải chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trên tay của ông Ji J.J rồi tăng ga chạy bỏ chạy, nhưng đã bị quần chúng nhân dân truy đuổi bắt giữ. Tài sản mà các bị cáo đã cùng nhau chiếm đoạt được của ông Ji J.J là một điện thoại di động hiệu Samsung Note 8 đã qua sử dụng. Theo Kết luận định giá tài sản số 5367/KL-HĐĐGTS ngày 28/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp Thành phố, thì chiếc điện thoại này trị giá 4.910.000 đồng.

[3] Thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị như nêu trên, rồi nhanh chóng tẩu thoát mà các bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”; đồng thời, thì hành vi dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Phạm Thanh T, Đoàn Trần Anh T1 tội danh “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[4] Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp và các bị cáo cố ý cùng thực hiện tội phạm nên hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính đồng phạm. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ đó là quyền sở hữu đối với tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo tâm lý hoang mang, lo sợ cho mọi người trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, cần phải xử các bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra nhằm mục đích giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa cho toàn xã hội. Trong đó, bị cáo Đoàn Trần Anh T1 có nhân thân xấu, nên phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”, tại phiên tòa tỏ ra “ăn năn hối cải”, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Bị cáo rọng được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là lần đầu phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về xử lý vật chứng thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- Bị hại - ông Ji J.J - đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Vật chứng, tài sản, vật dụng thu giữ của bị cáo Phạm Thanh T:

+ 01 điện thoại Oppo F11, 01 áo khoác thun màu đen, 01 áo thun đen ngắn tay, 01 quần Jean dài màu màu xanh: đây là tài sản không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội và là các vật dụng cá nhân, nên trả lại cho bị cáo.

+ 01 xe gắn máy hiệu Winner màu đen nhám, số khung RLHKC2604GY320436, số máy KC26E1167075, mang biển số 59S1-xxxxx: chiếc xe này có biển số thật là 59S2-xxxx do bị cáo đứng tên chủ sở hữu. Xét thấy, chiếc xe này là phương tiện được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước, còn biển số 59S1-xxxxx thì không có trong cơ sở dữ liệu của cơ quan công an nên tịch thu tiêu hủy.

- Tài sản, vật dụng thu giữ của bị cáo Đoàn Trần Anh T1:

01 điện thoại Redmi Note 9S, 01 áo màu thun đen có cổ, 01 quần Jean dài màu màu xanh đen, 01 áo khoác màu đen bóng có chữ MILANO LOVE MOSCHINO: đây là tài sản không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội và là các vật dụng cá nhân, nên trả lại cho bị cáo

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Đoàn Trần Anh T1, Phạm Thanh T;

Tuyên bố các bị cáo Đoàn Trần Anh T1, Phạm Thanh T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đoàn Trần Anh T1 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2021.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2021.

2. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 xe gắn máy hiệu Winner màu đen nhám, số khung RLHKC2604GY320436, số máy KC26E1167075.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 biển số 59S1-xxxxx.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh T: 01 điện thoại Oppo F11, 01 áo khoác thun màu đen, 01 áo thun đen ngắn tay, 01 quần Jean dài màu màu xanh.

- Trả lại cho bị cáo Đoàn Trần Anh T1: 01 điện thoại Redmi Note 9S, 01 áo màu thun đen có cổ, 01 quần Jean dài màu màu xanh đen, 01 áo khoác màu đen bóng có chữ MILANO LOVE MOSCHINO.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 116/QĐ-VKS-P2 ngày 09/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/302 ngày 10/3/2022).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 443/2022/HS-ST

Số hiệu:443/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về