Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 20/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

NGÔ QUANG B; sinh ngày 14 tháng 10 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: số nhà 60/20 đường Phú T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Ngọc Đ và bà: Nguyễn Thị Mai L; có vợ: Vương Thị Thanh H và 01 con, sinh năm 2015; nhân thân: Ngày 27/4/2010 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 90/2010/HSST), Ngày 30/9/2013 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 260/2013/HSST); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 26/9/2021. (Có mặt)

- Bị hại: Chị Phạm Thị Tố L, sinh ngày 19/3/2000; nơi cư trú: ấp Quốc K, xã C, huyện B, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 09/6/2016 Nguyễn Đức H và Ngô Quang B gặp nhau tại quán cà phê trên đường Bàu C, trong lúc trò chuyện, H rủ B đi cướp giật tài sản để có tiền tiêu xài, B đồng ý nên H điều khiển xe máy hiệu Dream biển số 54P7-4241 chở B trên nhiều tuyến đường tìm người có tài sản tài sơ hở để cướp giật. Khoảng 17 giờ cùng ngày đến trước nhà số 321 đường Lý Thường K, Phường E, quận B, H thì phát hiện chị Phạm Thị Tố L (sinh ngày 19/3/2000) đang dừng xe máy sử dụng điện thoại di động hiệu Gionee P2 (Kết quả định giá trong tố tụng là 1.700.000 đồng) nên chỉ cho B thấy đồng thời điều khiển xe máy quay lại chạy ngược chiều áp sát bên trái chị L để B ngồi sau dùng tay trái giật điện thoại. Tuy nhiên, do chị L giằng lại, nên điện thoại rơi xuống đường. Thấy vậy, H tăng ga bỏ chạy nhưng sau đó cả hai bị bắt giữ cùng phương tiện phạm tội.

Tại Công an Phường 9, quận Tân Bình, lợi dụng sự sơ hở Ngô Quang B đã bỏ trốn. Ngày 12/7/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định truy nã số 05/QĐ đối với Ngô Quang B. Ngày 26/9/2021, Công an quận Tân Bình đã phối hợp với công an xã I, huyện K, tỉnh Gia Lai bắt giữ được Ngô Quang B tại địa chỉ 102 Ngô Q, thôn 2, xã I, huyện K, tỉnh Gia Lai.

Quá trình điều tra, Ngô Quang B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Đối với Nguyễn Đức H, ngày 07/3/2017, Tòa án nhân dân quận Tân Bình đã đưa ra xét xử và tuyên phạt Nguyễn Đức H 03 năm 06 tháng tù vể tội “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 đồng thời xử lý vật chứng theo quy định (Bản án số 28/2017/HSST).

Vật chứng vụ án:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Gionee P2 (trị giá 1.700.000 đồng), là tài sản bị chiếm đoạt; 01 xe gắn máy hiệu Dream biển số 54P7-4241 và 01 điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Đức H đã được giải quyết tại Bản án số 28/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

- 01 điện thoại di động hiệu Q.Mobie màu trắng bạc thu giữ của Bình.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 16 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo NGÔ QUANG B về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, thì hành vi sử dụng xe gắn máy làm phương tiện cướp giật tài sản vào ngày 09/6/2016 của bị cáo NGÔ QUANG B và đồng bọn đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, phạm tội do cố ý. Tuy nhiên, xét thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội trong trường hợp chưa đạt nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 15, Điều 38, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Phạm Thị Tố Liên đã nhận lại tài sản. Hiện nay không có thắc mắc, khiếu nại, yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Gionee P2 trị giá 1.700.000 đồng, là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho bị hại chị Phạm Thị Tố L. Chị L đã nhận lại tài sản, không có thắc mắc hay khiếu nại gì, đồng thời đã được xem xét xử lý theo Bản án số 28/2017/HSST ngày 07/3/2017 nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Đối với 01 xe máy hiệu Dream biển số 54P7-4241 và 01 điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Đức H đã được giải quyết tại Bản án số 28/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Q.Mobie màu trắng bạc thu giữ của B là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát, không bào chữa, hay trình bày ý kiến bổ sung mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ thu thập được thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, tạm giam, khởi tố vụ án, khởi tố bị can để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Ngô Quang B về hành vi “Cướp giật tài sản”, quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, thì hành vi sử dụng xe gắn máy làm phương tiện phạm tội của bị cáo là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn để chứng minh hành vi phạm tội và đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét do muốn có tiền phục vụ nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã cố ý phạm tội, tuy thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo chưa xảy ra nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, đã làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử phạt mức án phù hợp để giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội trong trường hợp chưa đạt, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Việc đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào vai trò, tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo để đề nghị áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 15, Điều 38, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Phạm Thị Tố L đã nhận lại tài sản. Hiện nay không có thắc mắc, khiếu nại, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Gionee P2 trị giá 1.700.000 đồng, là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho bị hại chị Phạm Thị Tố L. Chị L đã nhận lại tài sản, không có thắc mắc hay khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

- Đối với 01 xe máy hiệu Dream biển số 54P7-4241 và 01 điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Đức H đã được giải quyết tại Bản án số 28/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Q.Mobie màu trắng bạc thu giữ của Bình là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Căn cứ điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 15, Điều 38, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Tuyên bố bị cáo NGÔ QUANG B phạm tội “Cướp giật tài sản”. Xử phạt: NGÔ QUANG B 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời gian tù tính từ ngày 26/9/2021.

[2] Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Q.Mobie màu trắng bạc, số imei 351557057793451 (Tình trạng vật chứng theo như Biên bản bàn giao vật chứng số 54/BB/2021 ngày 19/5/2021 giữa Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận Tân Bình và Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014);

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về