Bản án về tội cướp giật tài sản số 348/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 348/2021/HS-PT NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (số 26 đường Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 228/2021/TLPT-HS ngày 26/5/2021 đối với bị cáo Trần Văn L do có kháng cáo của ông Trần Hoàng V (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Văn L) đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2021/HSST ngày 13/4/2021 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có liên quan đến kháng cáo: Trần Văn L, giới tính: Nam, sinh ngày 12/7/2004 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: D... đường Võ Văn N, ấp A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Cha: Trần Hoàng V, mẹ: Nguyễn Ngọc D; Nhân thân: Ngày 03/9/2019, bị Công an phường B, quận B xử phạt Cảnh cáo vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt ngày 22/8/2020. (có mặt) Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo, có liên quan đến kháng cáo:

1. Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Văn L:

1.1. Ông Trần Hoàng V, sinh năm 1962 (cha ruột) 1.2. Bà Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1971 (mẹ ruột) Địa chỉ: D... đường Võ Văn N, ấp A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (ông V và bà D có mặt) 2. Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn L: Ông Lâm Quốc V, Luật sư Văn phòng Luật sư V thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Trần Thanh S, Phan Anh P, Nguyễn Thanh T; các bị hại bà Nguyễn Thị Thúy N, bà Lê Anh T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thanh X, ông Nguyễn Việt H không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án xét xử cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 02/9/2019, Phan Văn P, Trần Văn L, Trần Thanh S và đối tượng tên P2 (chưa rõ lai lịch) ngồi uống cà phê tại số 2...... đường H, phường B, quận B thì P2 rủ S, P và L cùng nhau đi cướp giật tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, đồng thời phân công nhiệm vụ như sau: P2 điều khiển xe mô tô Wave (xe của L, biển số 59......-4.....) chở S trực tiếp giật, còn P đi ều khiển xe mô tô Dream (biển số 59.....-0.......) chở L đi sau làm nhiệm vụ cản địa.

Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, cả nhóm điều khiển xe đi qua nhiều tuyến đường trên địa bàn quận B để tìm tài sản cướp giật, khi đến bãi đất trống cạnh nhà số 2.... đường số 1, khu phố B, phường B thì P phát hiện bà Nguyễn Thị Thúy N đang dựng xe bên lề đường định lấy điện thoại ra nghe thì P2 điều khiển xe từ phía sau đến áp sát bên trái xe bà N, Song ngồi phía sau dùng tay phải chộp vào phần điện thoại ló ra ngoài nhưng bà N phát hiện dùng tay giữ lại nên không chiếm đoạt được, nghe Song nói “không được” thì P2 chở P chạy thoát về phía trước; thấy vậy, P chở L chạy lên phía trước xe của bà N nhằm mục đích cản trở để bà N không thể truy đuổi theo P2 và S. Cùng lúc này, trinh sát của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội đi tuần tra phát hiện nên khống chế bắt giữ P và L, còn P2 và S chạy thoát, sau đó P2 và S đến Công an phường B trình diện và khai nhận toàn bộ hành vi.

Đến khoảng 18 giờ ngày 11/8/2020, Nguyễn Thanh T và Trần Văn L cùng đi ăn tối thì nhận được điện thoại của Bé Đá (chưa rõ lai lịch) rủ đi tìm tài sản để cướp giật, T và L đồng ý. Cả nhóm thống nhất T điều khiển xe mô tô Wave (biển số 59......-4.....) chở L còn Bé Đá điều khiển xe mô tô Wave (biển số 52.....-0......) đi một mình; khi đang đi trên đường Bình Thành, phường B, quận B thì phát hiện bà Võ Thanh T2 đang điều khiển xe mô tô chở bà Lê Anh T, trong túi quần phía trước bên trái của bà T có để chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 nên cả ba điều khiển xe đi phía sau, khi đến trước nhà số 4...... đường B, phường B, quận B thì T điều khiển xe áp sát bên trái bà T để L ngồi phía sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại rồi cả ba tăng ga bỏ chạy, bà T2 điều khiển xe chở bà T tri hô “cướp, cướp…” và đuổi theo thì T, Lvà Bé Đá điều khiển xe chạy vào hẻm cụt rồi bỏ lại 02 chiếc xe, chạy bộ thoát khỏi hiện trường. Vụ việc được chuyển Công an quận B thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B, Trần Văn L, Trần Thanh S, Phan Văn P và Nguyễn Thanh T khai nhận hành vi như đã nêu trên.

Ngoài ra, L và S còn khai nhận đã thực hiện 03 vụ cướp giật khác trên địa bàn quận B vào ngày 28/8/2019, ngày 30/8/2019 và ngày 01/9/2019 nhưng không xác định được các bị hại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2021/HSST ngày 13/4/2021, Tòa án nhân dân quận B đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn L, Trần Thanh S, Phan Văn P và Nguyễn Thanh T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm a và điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 (đối với bị cáo L); Điều 91 và Điều 101 (đối với các bị cáo L, S và P) Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Trần Văn L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2020.

- Xử phạt bị cáo Trần Thanh S 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2020.

- Xử phạt bị cáo Phan Văn P 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/01/2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19/4/2021, ông Trần Hoàng V (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Văn L) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Ông Trần Hoàng V cung cấp cho Tòa án bản sao Huân chương chiến công hạng Ba do Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng cho ông V vì đã có thành tích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu giúp Cách mạng Campuchia và bản sao Giấy chứng nhận bị thương do Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông V ngày 21/6/1999 đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này. Ngoài ra, ông V còn cho rằng bị cáo Trần Văn L phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi nhưng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là quá nặng nên đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Trần Văn L và bà Nguyễn Ngọc D (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo L) xin giảm nhẹ mức phạt để bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Trần Hoàng V (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo L) còn trong hạn luật định nên hợp lệ.

Về tội danh: Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Trần Văn L phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm a và d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hình phạt: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung Bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa ra xét xử; trước khi phạm tội bị cáo đã vi phạm pháp luật vì sử dụng trái phép chất ma túy, ở lần phạm tội đầu bị cáo tham gia với vai trò cản địa, cơ quan tiến hành tố tụng đang trong quá trình xử lý thì bị cáo tiếp tục phạm tội lần thứ hai và sau đó thì tiếp tục chiếm đoạt tài sản của người khác thêm 03 lần nữa, điều này thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Tuy ở giai đoạn phúc thẩm, ông Trần Hoàng V (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo L) có cung cấp thêm cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ mới là bản sao Huân chương chiến công hạng Ba do Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng và Bản sao Giấy chứng nhận bị thương, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới cần áp dụng thêm cho bị cáo nhưng xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì mức hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là tương xứng, phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ nguyên mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo L.

- Luật sư bào chữa thống nhất với tội danh và điều khoản Viện kiểm sát áp dụng để truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa ra xét xử, không tranh luận. Tuy nhiên, về mức hình phạt Luật sư cho rằng hành vi của bị cáo L đã thực hiện vào ngày 02/9/2019 (lần thứ nhất) thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và hành vi đã thực hiện vào ngày 11/8/2020 (lần thứ hai) chưa gây ra thiệt hại nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 đồng thời không áp dụng Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) nên đã quyết định mức hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đối với bị cáo là quá nặng; ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm ông Trần Hoàng V còn cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017).

Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc xem xét áp dụng thêm cho bị cáo L các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích trên và áp dụng Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của ông V, sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L đồng thời xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Thanh S vì cả bị cáo L và bị cáo S đều là con của ông Trần Hoàng V và bà Nguyễn Ngọc D.

Đối đáp ý kiến tranh luận của Luật sư bào chữa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật quy định tội Cướp giật tài sản là tội có cấu thành hình thức và khách thể của tội này ngoài việc xâm phạm đến quyền sở hữu còn xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Luật sư bào chữa về việc áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 và Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) khi xem quyết định hình phạt đối với bị cáo L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Trần Hoàng V (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Văn L) phù hợp với quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên có cơ sở xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về nội dung kháng cáo:

- Đối với tội danh và khung hình phạt: Bị cáo Trần Văn L, đại diện hợp pháp của bị cáo, Luật sư bào chữa và đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đều thống nhất Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội Cướp giật tài sản theo quy định tại điểm a và điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề này.

- Đối với mức hình phạt: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung của Bản án sơ thẩm. Vì muốn có tiền tiêu xài nên ngày 02/9/2019 và ngày 11/8/2020, bị cáo đã cùng với đối tượng tên P2 và Bé Đá (không rõ lai lịch) và các bị cáo Trần Thanh S, Phan Văn P, Nguyễn Thanh T chiếm đoạt tài sản của bà Lê Thị Thúy N và bà Lê Anh T. Qua định giá, tài sản bị cáo và các bị cáo khác cùng với hai đối tượng tên P2 và Bé Đá chiếm đoạt của 02 bị hại có giá trị tổng cộng là 3.400.000 (ba triệu bốn trăm ngàn) đồng, các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong vụ án này, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bà N bị cáo giữ vai trò cản địa sau đó ngày 11/8/2020 bị cáo là người trực tiếp giật chiếc điện thoại di động trong túi quần phía trước bên trái của bà T; ngoài ra, bị cáo còn khai nhận đã cùng với bị cáo S thực hiện thêm 03 vụ cướp giật tài sản khác vào các ngày 28/8/2019, 30/8/2019 và 01/9/2019 nhưng do chưa xác định được bị hại nên cơ quan tiến hành tố tụng chưa đủ cơ sở để xem xét.

Hội đồng xét xử xét thấy: Khi xem xét quyết định mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm có xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ về nhân thân, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại và thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải của bị cáo L theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) đồng thời có xem xét đến việc bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, trong đó có lần phạm tội đầu (vào ngày 02/9/2019) khi chưa đủ 16 tuổi để áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017); ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên, bản thân bị cáo đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính vì đã sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo vào các ngày 02/9/2019 và 11/8/2020 thuộc trường hợp có 02 tình tiết định khung (có tổ chức, dùng thủ đoạn nguy hiểm) và 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (phạm tội 02 lần trở lên). Tuy ở giai đoạn phúc thẩm, ông Trần Hoàng V (là cha ruột bị cáo) có cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ và Hội đồng xét xử chấp nhận xem đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới cần áp dụng thêm cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, của Luật sư bào chữa và của ông V nhưng xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị cáo đã thực hiện cùng nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên thì mức hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là không nặng, đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của ông V cùng lời đề nghị của bị cáo L, của bà D và của Luật sư bào chữa; phân tích và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm về việc giữ nguyên mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo L là có cơ sở.

Ngoài ra, Luật sư bào chữa còn cho rằng cần thiết phải áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 và Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017), Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị này là không có cơ sở chấp nhận. Phân tích của đại diện Viện kiểm sát phản bác ý kiến của Luật sư là có cơ sở.

Đối với bị cáo Trần Thanh S: Do bị cáo S không có kháng cáo, bên cạnh đó Hội đồng xét xử giữ nguyên mức hình phạt tù Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo L nên không xem xét giảm hình phạt cho bị cáo S như đề nghị của Luật sư bào chữa.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Về án phí: Ông Trần Hoàng V phải chịu án phí phúc thẩm do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 345; điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Hoàng V (là người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Văn L).

Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm a và điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Văn L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2020.

2. Áp dụng Luật phí, lệ phí ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Ông Trần Hoàng V phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 348/2021/HS-PT

Số hiệu:348/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về