TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 23/02/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: Số 09 đường Phú Hòa, Phường 07, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Gia H, sinh ngày 30 tháng 3 năm 2006, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 81 đường B, Phường Q, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con bà Trần Kim A, cha (không rõ); gia đình có 03 anh em, bị cáo là con cả; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 07/10/2022 (có mặt).
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Trần Kim A, trú tại: 81 đường B, Phường Q, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh là mẹ ruột của bị cáo (có mặt).
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Lâm Quốc V, Luật sư Văn phòng luật sư L thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo (có mặt).
- Bị hại: Anh Nguyễn Hà D, sinh năm: 1995 Địa chỉ: 70N đường S (số mới: 729/60 NK), Phường W, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 13/5/2022, K (không rõ lai lịch) điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha màu trắng chở Trần Gia H đi uống cà phê, sau đó K và H đổi tài cho nhau. Trên đường đi K rủ H cùng đi cướp giật tài sản kiếm tiền tiêu xài và H đồng ý. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe chở K đi trên đường Th, K phát hiện anh Nguyễn Hà D đang ngồi trên xe máy đỗ bên hông trường N, số 913-915 đường Th, Phường Z, quận T sử dụng điện thoại di động, K nói H quay xe lại để giật điện thoại, H đồng ý và điều khiển xe quay lại áp sát ngược chiều bên trái anh Bảo, K ngồi sau dùng tay trái giật điện thoại của anh Bảo, sau đó nói H chạy đi, H tăng ga tẩu thoát cùng điện thoại vừa giật được. Anh Bảo liền điều khiển xe đuổi theo và tông xe vào xe của H làm cả hai xe đổ xuống đường, lúc này anh Bảo bắt giữ được H, còn K tẩu thoát cùng xe máy và điện thoại vừa giật được của anh Bảo.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Trần Gia H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.
Theo Kết luận định giá tài sản số 69/HĐĐGTS-TTHS ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 (một) điện thoại di động hiệu iPhone 11 Promax 64GB màu xanh rêu có giá trị 15.000.000đ (Mười lăm triệu) đồng.
Bản cáo trạng số 11/CTr-VKS ngày 09 tháng 01 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Gia H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận: Đây là vụ án cướp giật tài sản do Trần Gia H cùng đồng bọn thực hiện tại bên hông trường N, số 913-915 đường Th, Phường Z, quận T vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/5/2022. H cùng đồng bọn sử dụng xe máy giật điện thoại di động của anh Nguyễn Hà D, điện thoại trị giá 15.000.000 đồng chưa thu hồi được, H tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức. Hành vi của Trần Gia H đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nên cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Gia H về tội cướp giật tài sản. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tình tiết khác: Khi thực hiện hành vi phạm tội Trần Gia H dưới 18 tuổi nên áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Trần Gia H phạm tội cướp giật tài sản, xử phạt bị cáo Trần Gia H từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt do bị hại không yêu cầu bồi thường nên Viện kiểm sát không đề nghị xem xét. Ý kiến của người bào chữa đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là chưa đủ điều kiện áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc trong quá trình nghị án.
Luật sư Lâm Quốc V bào chữa cho bị cáo và bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, truy tố bị cáo Trần Gia H về tội cướp giật tài sản, Luật sư thống nhất tội danh theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Luật sư cũng đề nghị xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nên nhận thức còn hạn chế; ngoài ra bị cáo có nhân thân tốt, có hoàn cảnh khó khăn. Với những lý do trên, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để cho bị cáo mức án thấp nhất.
Ý kiến của người đại diện hợp pháp của bị cáo: Thống nhất với phần bào chữa của Luật sư Lâm Quốc V bào chữa cho bị cáo. Người đại diện hợp pháp của bị cáo không tranh luận, bào chữa bổ sung, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Trong thời gian tạm giam, bị cáo thấy hối hận, mong Hội đồng xét xử chiếu cố xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình, được tiếp tục đi làm phụ giúp mẹ bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/5/2022, Trần Gia H cùng đối tượng K đã có hành vi sử dụng xe gắn máy chạy áp sát anh Nguyễn Hà D đang ngồi trên xe máy giật chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 11 Promax 64GB màu xanh trị giá 15.000.000 đồng rồi nhanh chóng tẩu thoát. Với hành vi trên, bị cáo Trần Gia H đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình truy tố bị cáo theo tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Hành vi do bị cáo cùng đồng bọn thực hiện là rất táo bạo, liều lĩnh sử dụng xe gắn máy làm phương tiện ngang nhiên cướp giật tài sản của người khác ngay trên đường phố, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và của những người đang tham gia giao thông, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì động cơ tư lợi muốn có được tài sản của người khác mà không phải bỏ công sức lao động chân chính của mình làm ra, bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời cũng để bảo đảm đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình là có căn cứ.
[4] Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong vụ án này, đối tượng chủ mưu, rủ rê bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là K đã bỏ trốn, bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm là người giúp sức, không phải là người chủ mưu trong vụ án. Do đó, cần xem xét các tình tiết này để áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm giản đơn, đồng thời phân hóa vai trò đối với người đồng phạm không phải là người chủ mưu trong vụ án.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người dưới 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 90, Điều 91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự để khi quyết định hình phạt sẽ áp dụng cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người phạm tội trên 18 tuổi là phù hợp với chính sách pháp luật dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người dưới 18 tuổi, theo quy định tại khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Hà D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Về chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 11 Promax 64GB bị cáo cùng đồng bọn chiếm đoạt chưa thu hồi được, tuy nhiên anh Bảo không yêu cầu bị cáo bồi thường. Xét đây là sự tự nguyện của bị hại, theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên Hội đồng xét xử ghi nhận, không buộc bị cáo bồi thường giá trị chiếc điện thoại trên cho anh Bảo.
[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và mức án đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần được chấp nhận.
[10] Ý kiến của Luật sư Lâm Quốc V bào chữa cho bị cáo, đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo có hoàn cảnh khó khăn theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự thì đây không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Luật sư.
[11] Theo kết quả điều tra xác định đối tượng K là người chủ mưu nhưng đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã ra quyết định tách vụ án, khi nào làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.
[12] Quá trình điều tra H khai trước đó cùng ngày (ngày 13/5/2022), H cùng với K giật hụt chiếc điện thoại của một người thanh niên đang đi bộ trên đường nhưng không xác định được bị hại. Ngoài lời khai của H, không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xem xét xử lý H về hành cướp giật tài sản của lần này.
[13] Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[14] Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 90; Điều 91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 329 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015; Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Gia H phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Gia H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2022.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 22/2023/HS-ST
Số hiệu: | 22/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về