Bản án về tội cướp giật tài sản số 137/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 137/2022/HS-PT NGÀY 29 /11/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 154/2022/HSPT ngày 10 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo có kháng cáo:

Đỗ Thành K; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1987 tại Nha Trang, Khánh Hòa.Nơi cư trú: 04 V – phường V - thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Hùng T (1962) và bà Lê Thị Kim H (chết); Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 23A/2009/HSPT ngày 13/3/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2009, đã nộp án phí hình sự ngày 12/7/2022; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo: Bà Đỗ Thị Thanh H- sinh 1982. Trú tại: 04 V – phường V - thành phố N, tỉnh Khánh Hòa (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Kim H - Luật sư, Văn phòng luật sư Nguyễn Trung Th thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa bào chữa cho bị cáo K theo yêu cầu của Tòa án. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 20 phút, ngày 23/06/2021, Đỗ Thành K điều khiển xe máy hiệu Wave, biển kiểm soát 79N3-305. đi đến Km 12+500 (đèo Cù Hin) Đại lộ N T (xã P – tp. Nha Trang) dừng xe và giả vờ xe hư để nhờ người đi đường phụ giúp đẩy xe nhằm mục đích cướp giật tài sản. Tại đây, K thấy chị Nguyễn Thị Hiền T đang điều khiển xe máy hiệu Honda VISION, biển kiểm soát 79C1-620… đi theo hướng Cam Lâm - Nha Trang, K vẫy tay chị T nói xe K bị hư và nhờ chị T đẩy giúp xe máy của K qua đoạn đường đèo Cù Hin để đổ xăng, chị T đồng ý, do chị T là phụ nữ nên không biết đẩy xe nên K nói với chị T để K đi xe máy của chị T đẩy T ngồi trên xe máy biển kiểm soát 79N3-305.. K ngồi trên xe máy của chị T thì tăng ga bỏ chạy, chị T truy hô đuổi theo nhưng không được K điều khiển xe máy hiệu Honda VISION màu đen xám, biển kiểm soát 79C1-620… của chị T đi đến cây xăng 42 P - xã P dừng xe vào đổ xăng thì tắt máy, không khởi động máy lại được, K để xe máy lại và bỏ đi. Sau đó chị T đến cơ quan Công an trình báo sự việc.

Tại Cơ quan Công an, Đỗ Thành K đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nói trên.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 13/KLGĐ ngày 18/01/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận đối với Đỗ Thành K: Hạn chế khả nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 277/KL-HĐĐGTS ngày 04/8/2022 của Hội đông giám định tài sản - UBND tp. Nha Trang kết luận: 01 xe máy hiệu Honda VISION biển kiểm soát 79C1-620… có trị giá 28.500.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 215/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, Khánh Hòa đã quyết định.

Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm q, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Thành K;

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thành K 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: không xét phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo Đỗ Thành K với bị hại Nguyễn Thị Hiền T.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/7/2022 người đại diện hợp pháp của bị cáo bà Đỗ Thị Thanh H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bà Hương giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa phát biểu quan điểm: Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2022/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, Khánh Hòa xét xử bị cáo Đỗ Thành K 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Sau phiên tòa sơ thẩm không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của cho bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với tội danh đã truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đối với mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo vì: Bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Do đó, có khả năng trong khoảng thời gian bị cáo bị phát bệnh nên không nhận thức, kiểm soát được hành vi của mình nên mới thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại. Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị cáo còn trong thời hạn luật định nên hợp lệ. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Thành K đã khai nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ đã được các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thu thập. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị cáo:

3.1. Xét nội dung kháng cáo xin hưởng án treo: Bị cáo Đỗ Thành K đã bị xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự phúc thẩm số 23A/2009/HSPT ngày 13/3/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ điều kiện được xóa án tích, nên thuộc trường hợp “Tái phạm”. Do đó, bị cáo không đủ điều kiện để xem xét cho hưởng án treo theo quy định.

3.2. Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội. Xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là đã tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, quá trình tranh tụng tại cấp phúc thẩm không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị cáo.

Các quyết định khác của bản sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Do kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đỗ Thành K.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị cáo Đỗ Thành K và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Xử phạt bị cáo Đỗ Thành K 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Bị cáo Đỗ Thành K phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 137/2022/HS-PT

Số hiệu:137/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về