Bản án về tội cướp giật tài sản số 11/2020/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 11/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 123/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo: Trần Văn P (tên gọi khác Bảy lé); giới tính: Nam; sinh ngày 02 tháng 4 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Võ Văn G và bà Trần Thị K; Chung sống như vợ chồng với bà Lâm Hoàng Q, có 01 con chung tên Lâm Minh S, sinh năm 2013.

Tiền án: Ngày 26/12/2013, Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 160/2013/HSST). Bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Ngày 21/4/2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (Bản án số 261/2014/HSPT), chưa thi hành khoản nộp án phí hình sự sơ thẩm; Ngày 29/4/2016, Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 53/2016/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/7/2017, chưa thi hành khoản nộp thu lợi bất chính và lãi chậm thi hành án; Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 16/9/2019. (có mặt).

Bị hại: Bà Lê Thị Hoàng V, sinh năm 1995 Nơi cư trú: Đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 13/9/2019, Trần Văn P điều khiển xe gắn máy Honda Vario màu đỏ - đen, biển số 59C1- 991.XX lưu thông trên đường Tôn Đản, hướng từ đường Nguyễn Tất Thành về đường Tôn Thất Thuyết, Quận 4. Phú nhìn thấy bà Lê Thị Hoàng V đang điều khiển xe gắn máy biển số 59T1- 895.XX chở em họ là Lê Thị Thanh T đang lưu thông cùng chiều, trên tay trái bà V có đeo 01 chiếc lắc bi bằng kim loại màu vàng, P liền nảy sinh ý định chiếm đoạt, nên cho xe chạy bám theo. Khi đến trước số 92 Tôn Đản, Phường 10, Quận 4, Phú điều khiển xe Vario biển số 59C1- 991.XX từ phía sau vượt lên, áp sát phía bên trái của bà V, dùng tay phải giật lấy chiếc lắc bà V đang đeo trên tay trái rồi tăng ga bỏ chạy. Bà V phát hiện bị cướp giật liền tri hô và cho xe chạy đuổi theo P. P cầm chiếc lắc trên tay phải bỏ chạy được khoảng 05 mét thì những viên bi tròn trên chiếc lắc kết nối bằng sợi dây đeo bị P giật đứt đã tuộc rơi hết xuống đường. P chạy đến đầu hẻm 140 Tôn Đản thì va quẹt xe với ông Lê Văn T làm cả hai té ngã xuống đường. Lúc này, bà V chạy đến nhìn thấy P đứng dậy dựng xe Vario định tiếp tục tẩu thoát, nên liền điều khiển xe đụng xe Vario của P làm P té ngã rồi cùng những người xung quanh bắt giữ P đưa về trụ sở Công an Phường 10, Quận 4 làm rõ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Trần Văn P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đối với vật chứng vụ án là 01 lắc tay xâu chuỗi bằng kim loại màu vàng đã cướp giật được, P khai đã làm rơi mất nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Bị hại là bà Lê Thị Hoàng V xác định tài sản bị P cướp giật là 01 lắc tay bi nhỏ bằng vàng, mua năm 2017, có trọng lượng khoảng 01 chỉ 05 phân vàng 18K, giá khoảng hơn 3.000.000 đồng.

Tại Kết luận số 117/KL-HĐĐG ngày 11/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 4 kết luận: 01 sợi dây kim loại dạng lắc tay xâu chuỗi các hạt bi nhỏ bằng vàng mua năm 2017 với trọng lượng khoảng 01 chỉ 05 phân vàng 18K, đã qua sử dụng có giá trị là 4.554.900 đồng.

Về mặt dân sự: Gia đình Trần Văn P đã bồi thường thiệt hại cho bị hại là bà Lê Thị Hoàng V số tiền 2.000.000 đồng, bà Vy đã nhận tiền và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với xe gắn máy Honda Vario màu đỏ - đen, biển số 59C1-991.XX do Trần Văn P sử dụng làm phương tiện cướp giật, qua xác minh do mẹ P là bà Trần Thị K là chủ sở hữu. Ngày 13/9/2019, bà K cho P mượn xe để đi uống cà phê, không biết P sử dụng xe trên làm phương tiện cướp giật. Do bà K không liên quan đến hành vi cướp giật của P , Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an Quận 4 đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe gắn máy Honda Vario biển số 59C1-991.XX cho bà K để tiếp tục sử dụng, bà K đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì thêm.

Đối với ông Lê Văn T bị Trần Văn P va quẹt xe sau khi cướp giật bỏ chạy, ông T khai bị hư hỏng xe do va chạm nhưng tự nhận xe về sửa chữa, không yêu cầu P phải bồi thường.

Vật chứng của vụ án: 01 áo sơ mi sọc carô màu đen dài tay đã qua sử dụng và 01 quần jean đen dài màu đen đã qua sử dụng là trang phục của P mặc khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

Ngoài ra, trong hồ sơ còn lưu niêm phong 01 đĩa DVD có hình ảnh của đối tượng liên quan đến vụ cướp giật tài sản tại trước số 92 Tôn Đản, Phường 10, Quận 4 vào lúc 13 giờ 15 phút ngày 13/9/2019.

Tại Bản cáo trạng số 128/CT-VKS ngày 29/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Trần Văn P về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo Trần Văn P có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, nên xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn P về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù đến 05 (năm) năm tù; Buộc bị cáo nộp phạt số tiền là 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước; Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại và bị hại không có yêu cầu, nên không đặt ra vấn đề giải quyết; Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Tại Cơ quan điều tra c ng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 13/9/2019, trước nhà số 92 Tôn Đản, Phường 10, Quận 4, bị cáo P đã có hành vi dùng xe gắn máy làm phương tiện để công khai chiếm đoạt 01 chiếc lắc tay của bà Lê Thị Hoàng V, xét đây là thủ đoạn nguy hiểm mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Theo Kết luận định giá 01 sợi dây kim loại dạng lắc tay xâu chuỗi các hạt bi nhỏ bằng vàng mua năm 2017 với trọng lượng khoảng 01 chỉ 05 phân vàng 18K, đã qua sử dụng có giá trị là 4.554.900 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời, bản thân bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo rất táo bạo, liều lĩnh, công khai chiếm đoạt tài sản của người khác một cách nhanh chóng ngay trên đường phố, nơi đông người qua lại. Thể hiện sự xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện đến cùng. Do đó, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng mức hình phạt tương xứng mới đủ sức để răn đe, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s, điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Lê Thị Hoàng V đã nhận được bồi thường và không yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 áo sơ mi sọc carô màu đen dài tay đã qua sử dụng và 01 quần jean đen dài màu đen đã qua sử dụng là trang phục của Phú mặc khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản, xét đây là trang phục của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

Ngoài ra, trong hồ sơ còn lưu niêm phong 01 đĩa DVD có hình ảnh của đối tượng liên quan đến vụ cướp giật tài sản tại trước số 92 Tôn Đản, Phường 10, Quận 4 vào lúc 13 giờ 15 phút ngày 13/9/2019, xét đây là chứng cứ của vụ án, nên cần tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Trần Văn P 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại cho 01 áo sơ mi sọc carô màu đen dài tay đã qua sử dụng và 01 quần jean đen dài màu đen đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4).

- Căn cứ Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD có hình ảnh của đối tượng liên quan đến vụ cướp giật tài sản tại trước số 92 Tôn Đản, Phường 10, Quận 4 vào lúc 13 giờ 15 phút ngày 13/9/2019.

- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng;

2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Đối với bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 11/2020/HS-ST

Số hiệu:11/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về