Bản án về tội cướp giật tài sản số 104/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 13/8/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 119/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2021 và Thông mở lại phiên tòa số: 07/TB-TA ngày ngày 09 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân H, sinh năm: 2002 tại Lâm Đồng; hộ khẩu thường trú và cư trú: Số 238 đường 1/5, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 06/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; côn ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1964 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1966, cả hai hiện cư trú tại phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; gia đình có 06 chị em, lớn nhất sinh năm 1987, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 18/7/2017, bị Công an phường B’Lao, thành phố Bảo Lộc phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ- XPVPHC.

- Ngày 26/10/2017, bị Công an thành phố Bảo Lộc phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt hành chính số 17/ QĐ-XPVPHC.

- Ngày 26/03/2021, bị Công an thành phố Bảo Lộc xử phạt số tiền 2.000.000đ về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/QĐ-XPHC. Đến ngày 22/4/2021 chấp hành xong việc đóng phạt.

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

Bị hại: Cháu Nguyễn Gia H1, sinh ngày: 01/8/2016; nơi cư trú: Số 69/18  đường Phan Ngọc H, phường T, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Gia H1:

Bùi Thị Ngọc B, sinh năm: 1979; nơi cư trú: Số 69/18  đường Phan Ngọc H, phường T, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng - Là mẹ đẻ của cháu H1. Vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Trung H2, sinh năm:

1995; nơi cư trú: Số 238 đường 1/5, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 01/01/2021 Nguyễn Xuân H, điều khiển xe mô tô biển số 49K1-X nhãn hiệu Honda Blade (H mượn của anh trai mình là Nguyễn Trung H2) đi từ nhà mình theo hướng về phường Lộc Tiến. Khi đi đến hẻm số 69/18 đường Phan Ngọc H, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc, H phát hiện thấy cháu Nguyễn Gia H1, sinh ngày 01/8/2016 trên tay đang cầm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung A50 (chiếc điện thoại này là của bà Bùi Thị Ngọc B là mẹ của cháu H1 đưa cho cháu H1 xem video Clip). Thấy vậy nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt, H điều khiển xe mô tô chạy qua cháu H1 khoảng 5m sau đó dừng xe và đi bộ lại vị trí cháu H1 đang ngồi. H nói với cháu H1 “Cho chú mượn điện thoại nha” thì cháu H1 không nói gì, H tiếp tục nói “Cho chú mượn điện thoại” thì cháu H1 đưa điện thoại cho H. Lúc này, H bỏ chiếc điện thoại trên vào túi quần mình đang mặc rồi đi đến vị trí nơi dựng xe máy và nhanh chóng điều khiển xe rời đi. Sau đó, H mang chiếc điện thoại này về nhà và tự mở mật khẩu, cài đặt lại chương trình và xóa mật khẩu của điện thoại. Đến khoảng 19 giờ ngày 01/01/2021 H mang chiếc điện thoại trên đến của hàng điện thoại Thiện Nhân bán cho anh Võ Văn L là chủ cửa hàng được số tiền là 2.700.000đ, số tiền này H tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận giám định trong tố tụng hình sự số 29 ngày 22/02/2021 của Hội đồng định giá UBND thành phố Bảo Lộc xác định giá trị 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung A50, màu xanh dương là 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bảo Lộc đã thu hồi và trả lại 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Sam Sung A50 màu xanh dương cho bà Bùi Thị Ngọc B; thu giữ và trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, BKS: 49K1-X, số máy 0881863, số khung 016644 cho anh Nguyễn Trung H2 là chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Bùi Thị Ngọc B đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự. Quá trình điều tra bị cáo H đã tự nguyện bồi thường cho anh Võ Văn L số tiền là 2.700.000đ nên anh L không có yêu cầu gì về dân sự.

Cáo trạng số: 124/CT-VKSBL ngày 24/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng truy tố Nguyễn Xuân H về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo không thắc mắc, khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận vào khoảng 11 giờ ngày 01/01/2021 đã điều khiển xe Honda Blade màu trắng đen, biển số 49K1-X đến hẻm số 69/18  đường Phan Ngọc H, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc thì thấy một cháu bé khoảng 4 đến 5 tuổi đang ngồi bệt dưới đường bê tông, trên tay đang cầm 01 chiếc điện thoại xem vi deo trên điện thoại. Lúc này bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này nên chạy xe máy qua cháu bé khoảng 5m, rồi dừng xe máy bên trái đường, đi bộ đến và nói với cháu bé “Cho chú mượn điện thoại nha”. Khi cháu bé đưa cho bị cáo chiếc điện thoại này thì bị cáo cầm bỏ vào túi quần, sau đó nhanh chóng đi đến vị trí xe đang dựng rồi điều khiển xe bỏ chạy như nội dung bản cáo trạng nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H từ 03 đến 04 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng đúng theo quy định của pháp luật nên không đề cập đến.

Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì nên không xem xét đến. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 11 giờ ngày 01/01/2021 tại hẻm số 69/18 đường Phan Ngọc H, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, Nguyễn Xuân H đã có hành vi công khai chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung A50 của cháu Nguyễn Gia H1 đang sử dụng sau đó nhanh chóng tẩu thoát. Giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng vẫn thực hiện, mục đích để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị hại cháu Nguyễn Gia H1, sinh ngày 01/8/2016, thời điểm này chưa đủ 5 tuổi.

Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Xuân H đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, với tình tiết định khung tăng nặng là “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

- Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu (đã 3 lần bị Công an thành phố Bảo Lộc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản).

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt chính: Tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự về tội Cướp giật tài sản quy định:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

......

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ”.

Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là táo bạo, liều lĩnh, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Mặt khác, bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, cần phải xử phạt tù giam, nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung theo quy định khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[6] Về vật chứng:

- Đối với 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Sam Sung A50 màu xanh dương là tang vật của vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bảo Lộc đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp bà Bùi Thị Ngọc B là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, BKS: 49K1-X, số máy 0881863, số khung 016644 thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Trung H2. Khi bị cáo lấy chiếc xe này đi thực hiện hành vi phạm tội thì anh H2 không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bảo Lộc đã trả lại cho anh H2 là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì về vấn đề dân sự nên không xem xét đến.

[8] Về các vấn đề khác:

- Đối với anh Võ Văn L là người đã mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung A50 của bị cáo H. Tuy nhiên, tại thời điểm mua thì anh L không biết đây là tài sản do H phạm tội mà có, do vậy Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh L là đúng pháp luật.

- Đối với anh Nguyễn Trung H2 cho bị cáo H mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, BKS:49K1-X. Tuy nhiên, anh H2 không biết bị cáo H sử dụng vào mục đích phạm tội nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh H2 là đúng pháp luật.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Xuân H phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm; bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về