Bản án về tội cướp giật tài sản số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

 Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 97/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2022/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 484/2022/HSST-QĐ ngày 28 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hoàng V, sinh ngày 18 tháng 3 năm 1990; tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 12/6 PVH, Tổ A, Khu phố B, Phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị T; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 01/8/2007 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 200/2007/HSST; Ngày 17/8/2010 Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 (bốn) năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 96/2010/HSST. Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa – T30 từ ngày 20/5/2022; (có mặt).

2. Lưu Hoàng K, sinh ngày 08 tháng 02 năm 1987; tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 30/4K CMT8, Tổ C, Phường 5, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn S và bà Ngô Thị N; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 18/4/2008 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự số 80/2008/HSST; Ngày 08/4/2016 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm tù giam về tội “Chống người thi hành công vụ” theo bản án hình sự sơ thẩm số 99/2016/HSST. Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa – T30 từ ngày 08/4/2022; (có mặt).

- Bị hại: Ông Lê Văn M, sinh năm 1983; nơi cư trú: 52/17 Đường X, Khu phố Y, phường Bình Chiểu, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 05/4/2022, Nguyễn Hoàng V nhận được điện thoại của đối tượng Q (chưa rõ lai lịch) rủ đi cướp giật tài sản kiếm tiền tiêu xài thì V đồng ý và hẹn gặp nhau tại Công viên Lê Thị Riêng trên đường CMT8, Quận 10. Sau đó, V gọi cho Lưu Hoàng K rủ cùng nhau đi cướp giật tài sản và gặp nhau tại quán cà phê vỉa hè trước số 523 – 525 LLQ, Phường D, quận Tân Bình. Tại đây, V bàn bạc với K là khi phát hiện người có tài sản thì V sẽ trực tiếp cướp giật, còn K và bạn của V (tên Q) chạy xe máy theo cản trở nếu có ai truy đuổi để cho V chạy thoát, tài sản giật được bán chia nhau tiêu xài. V điều khiển xe máy hiệu Future, màu đỏ (không rõ biển số), K điều khiển xe máy hiệu Dream, màu đen, biển số  52Y2-01xx chạy đến công viên Lê Thị Riêng gặp Q đang ngồi trên xe máy hiệu Wave chờ, rồi 03 người sử dụng 03 xe máy cùng nhau đi cướp giật tài sản. Khi cả nhóm đi đến ngã tư NDC – LQD, phường Võ Thị Sáu, Quận 3 thấy ông Lê Văn M đang đứng trên lề đường, tay kẹp nách 01 bóp da màu đen, Q ra hiệu cho V và K biết rồi Q dừng xe dưới lòng đường NDC và K dừng xe dưới lòng đường LQD để chờ cảnh giới cho V. Ngay lúc này, V liền chạy lên lề bên trái ngược chiều đường NDC rồi vòng lại áp sát vào ông M dùng tay giật được chiếc bóp bỏ chạy. Q và K thấy V đã giật được tài sản cũng tăng ga bỏ chạy về hướng Quận 1. Do không chạy theo kịp V nên K điện thoại cho V hẹn gặp nhau tại ngã tư đường DK-LTT, Quận 1. Khi V và Q chạy đến khu vực DK-LTT thì gặp nhau, V đưa lại chiếc bóp cướp giật được cho Q cất giữ, xong K cũng vừa chạy đến. Lúc này, lực lượng Công an Quận 1 tuần tra phát hiện nhóm của V, Q, K có biểu hiện nghi vấn cướp giật tài sản nên giữ được K để làm rõ, còn V, Q bỏ chạy thoát. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Q liên lạc gặp V tại Quận 4, Q nói trong bóp có 13.000.000 đồng và 01 điện thoại Iphone, Q đưa cho V 11.000.000 đồng, nạp card điện thoại cho V 2.000.000 đồng, chiếc điện thoại Iphone thì Q giữ sử dụng, số tiền chiếm đoạt được V đã tiêu xài cá nhân hết.

Quá trình truy xét, Cơ quan điều tra xác định Nguyễn Hoàng V, Lưu Hoàng K là người cướp giật tài sản của anh Lê Văn M nên tiến hành khởi tố các bị can để điều tra xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hoàng V và Lưu Hoàng K đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 133/KL-HĐĐGTS ngày 28/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 (Bút lục 43, 44), xác định:

- Chiếc điện thoại hiệu Iphone 7 Plus, 32GB, màu đen, tại thời điểm tháng 4/2022 trị giá 1.500.000 đồng.

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, model 8800 Airte Cacbon tại thời điểm tháng 4/2022 trị giá 15.666.000 đồng.( định giá theo lời khai bị hại, bị cáo không thừa nhận) Đối với các tài sản còn lại gồm 01 điện thoại di động hiệu Vio, 01 túi xách tay hiệu LV không định giá được.

Vật chứng của vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, số Imel: 353253075101947. Tình trạng máy cũ đã qua sử dụng.

- 01 xe gắn máy hiệu Dream, màu đen, mang biển số 52Y2-11xx, số khung FS100-3900641, số máy 1P50FMG-3*10421969*. Tình trạng xe đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong. Bị cáo K khai mua của người không rõ lai lịch ngoài xã hội, khi mua không có giấy tờ, Cơ quan điều tra đã đề nghị đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả.

- 01 áo sơ mi dài tay caro xanh; 01 quần jean dài, màu xanh; 01 nón bảo hiểm màu xanh in chữ Grab.

Tất cả vật chứng trên thu giữ của bị cáo Lưu Hoàng K, đã được nhập kho vật chứng Công an Quận 3.

Trách nhiệm dân sự: Ông Lê Văn M yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 120.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS-HS ngày 25/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng V và Lưu Hoàng K về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm a, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay :

- Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị xử phạt bị cáo V từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù giam; xử phạt bị cáo K từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đến 04 (bốn) năm tù giam; tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, số Imel: 353253075101947. Tình trạng máy cũ đã qua sử dụng; giao cho cơ quan Thi hành án Dân sự tìm và giao trả cho chủ sở hữu hợp pháp 01 xe gắn máy hiệu Dream, màu đen, mang biển số 52Y2-11xx, số khung FS100-3900641, số máy 1P50FMG-3*10421969*. Tình trạng xe đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong; tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay caro xanh; 01 quần jean dài, màu xanh; 01 nón bảo hiểm màu xanh in chữ Grab.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an phường Võ Thị Sáu, Quận 3 lập ngày 05/4/2022 (BL 72); Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp do Công an phường Võ Thị Sáu, Quận 3 lập ngày 08/4/2022 (BL 66); Biên bản bắt bị can để tạm giam do Công an phường Võ Thị Sáu, Quận 3 lập ngày 20/5/2022 (BL 29); phù hợp nội dung các lời khai của bị hại, nhân chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận như sau: khoảng 12 giờ ngày 05/4/2022, sau khi Q gọi điện thoại rủ V đi cướp giật tài sản, bị cáo V đã gọi điện thoại rủ thêm K và tập trung tại quán cà phê vỉa hè trước số 523 – 525 LLQ, Phường 10, quận Tân Bình. Tại đây, V bàn bạc với K là khi phát hiện người có tài sản thì V sẽ trực tiếp cướp giật, còn K và bạn của V (tên Q) chạy xe máy theo cản trở. Sau đó khi cả ba đến ngã tư NDC-LQD thì V đã chạy lên lề bên trái ngược chiều đường NDC rồi vòng lại áp sát vào ông M dùng tay giật được chiếc bóp bỏ chạy.

[2] Xét, các bị cáo biết rõ hành vi cướp giật tài sản của người khác là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên vẫn bất chấp xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[3] Căn cứ từ các yếu tố nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo đã có sự bàn bạc trước, phân công nhiệm vụ rõ ràng sau đó cùng nhau dùng thủ đoạn sử dụng xe gắn máy làm phương tiện để nhanh chóng chiếm đoạt được của ông Lê Văn M 01 cái bóp bên trong có 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus trị giá 1.500.000 đồng và số tiền 13.000.000 đồng là phạm tội có tổ chức và dùng thủ đoạn nguy hiểm thuộc trường hợp định khung quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét, các bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 01/8/2007 bị cáo V bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 200/2007/HSST; Ngày 17/8/2010 bị cáo V bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 (bốn) năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 96/2010/HSST. Ngày 18/4/2008 bị cáo K bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự số 80/2008/HSST; Ngày 08/4/2016 bị cáo K bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm tù giam về tội “Chống người thi hành công vụ” theo bản án hình sự sơ thẩm số 99/2016/HSSTVì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo.

[5] Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi, khắc phục hậu quả cho bị hại nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Trong vụ án này, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn do đó Hội đồng xét xử áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định về xử phạt trong trường hợp có đồng phạm để xem xét khi lượng hình đối với các bị cáo.

[7] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng điểm a,d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự quy định về khung hình phạt áp dụng; áp dụng các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, số Imel: 353253075101947. Tình trạng máy cũ đã qua sử dụng là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Dream, màu đen, mang biển số 52Y2-11xx, số khung FS100-3900641, số máy 1P50FMG-3*10421969*. Tình trạng xe đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong nghĩ nên giao cho cơ quan Thi hành án Dân sự tìm và giao trả cho chủ sở hữu hợp pháp.

- Đối với 01 áo sơ mi dài tay caro xanh; 01 quần jean dài, màu xanh; 01 nón bảo hiểm màu xanh in chữ Grab không có giá trị sử dụng nghĩ nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đồng ý liên đới bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả và gia đình các bị cáo đã nộp số tiền 14.500.000 đồng (mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0008047 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 3 là không trái quy định của pháp luật nghĩ nên chấp nhận [10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

[11] Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 171; Điều 17 và Điều 58; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Hoàng V.

Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 171; Điều 17 và Điều 58; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Lưu Hoàng K.

Căn cứ điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng V và Lưu Hoàng K đã phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt : Nguyễn Hoàng V 03(ba) năm 06(sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/5/2022.

Xử phạt : Lưu Hoàng K 03(ba) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 08/4/2022.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, số Imel:

353253075101947. Tình trạng máy cũ đã qua sử dụng.

Giao cho cơ quan Thi hành án Dân sự tìm và giao trả cho chủ sở hữu hợp pháp 01 xe gắn máy hiệu Dream, màu đen, mang biển số 52Y2-11xx, số khung FS100- 3900641, số máy 1P50FMG-3*10421969*. Tình trạng xe đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong. Nếu quá 06 (sáu) tháng tính từ ngày thông báo trên báo vẫn không có chủ sở hữu hợp pháp đến xin nhận lại xe thì tịch thu sung quỹ Nhà nước. Nếu chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo trong vụ án này thì tịch thu xe sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay caro xanh; 01 quần jean dài, màu xanh; 01 nón bảo hiểm màu xanh in chữ Grab.

(Tài sản tịch thu, tiêu hủy, giao cho cơ quan thi hành án dân sự Quận 3 được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 630/LNK-CSĐT ngày 15/11/2022 của Công an Quận 3).

Buộc Nguyễn Hoàng V và Lưu Hoàng K liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Lê Văn M số tiền 14.500.000 đồng (mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng); gia đình các bị cáo đã nộp số tiền 14.500.000 đồng (mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng) để bồi thường thiệt hại theo biên lai số 0008047 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 3.Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên phải thi hành án không thực hiện đúng việc thanh toán tiền, thì bên phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Buộc các bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về