Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 39/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ L số: 34/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H; giới tính: Nam; sinh ngày 10 tháng 8 năm 1981 tại thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: lớp 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Nguyễn Hữu Nh, sinh năm 1948 và bà Đinh Thị D, sinh năm 1952; vợ: Đỗ Thị Thanh K, sinh năm 1994; con: 01 đứa, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” kể từ ngày 05/4/2022. Có mặt.

- Bị hại: Bà Lê Thị L, sinh năm 1968; nơi cư trú: thôn T, xã Quảng T, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Hữu Nh, sinh năm 1948; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

+ Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1966; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Quốc C, sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

+ Anh Lê Minh T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Khu phố 6, phường B, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1994; nơi cư trú: Tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1972; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

+ Anh Lê Thành T, sinh năm 1992; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

+ Anh Lê Anh D; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1977; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt (Có đơn xin giải quyết vắng mặt).

+ Chị Nguyễn Thùy L, sinh năm 2005; nơi cư trú: thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 30 phút, ngày 04 tháng 01 năm 2022, tại chợ S, thuộc xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; ông Nguyễn Hữu Nh, trú tại thôn T, xã Quảng T, thị xã B đẩy xe rùa chở rau đi chợ bán thì vấp phải cục bê tông dùng để làm chân cắm cọc dựng bạt che tại quán của vợ chồng ông Nguyễn Hữu L và bà Lê Thị L, trú cùng thôn, nên giữa ông Nh và ông L xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Sau đó, anh Nguyễn Quốc C (con trai ông L, bà L) đi xe máy đến đứng ngoài nhà ông Nh, cầm theo một đoạn ống nước bằng nhựa đòi đánh ông Nh, lúc này chị Nguyễn Thị H (con gái ông Nh) gọi điện cho Nguyễn Văn H (con trai ông Nh) với nội dung “Anh về nhà có người đến đòi đánh ba”. H bắt xe taxi và hẹn Nguyễn Thanh H cùng đi về, khi đi đến cầu Q thì H gặp xe ô tô tải của anh Lê Minh T do anh Nguyễn Hữu H điều khiển đang chạy lên chợ S để bán hàng nên H xin đi theo xe về nhà. Khi đi đến ngã tư giao nhau giữa đường tỉnh lộ 559 với đường liên thôn thuộc thôn T, xã Q thì gặp anh Nguyễn Quốc C, anh Lê Thái H và anh Lê Thành Tr, đều cùng trú tại thôn T, xã Q, thị xã B đang dựng chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, sơn màu đen, biển kiểm soát 73K1-020.00 của chị Nguyễn Thị Mỹ L (giao cho bà Lê Thị L sử dụng), trú cùng thôn để vào quán mua thuốc tại quán tạp hóa M. Thấy vậy, H chạy đến đánh C, anh C bỏ chạy thì H dùng chân đạp ngã chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, sơn màu đen, biển kiểm soát 73K1 - 020.00, tiếp đó H lấy một cục đá (dạng đá lèn), kích thước (27 x 37)cm nằm ở ngã tư đường rồi dùng hai tay cầm cục đá giơ lên ngang đầu ném hai lần vào chiếc xe mô tô làm cho một số bộ phận của xe mô tô bị vỡ hỏng. Lúc này, bà Lê Thị L chạy đến can ngăn và nói “cháu ơi, hiểu nhầm rồi” thì bị H dùng tay tát vào mặt làm bà L ngã xuống mặt đường bê tông dẫn đến bị thương tại vùng đầu, mặt phải đi sơ cứu tại Trạm y tế xã Quảng Trung, sau đó chuyển Bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Quảng Bình điều trị từ ngày 04 tháng 01 năm 2022 đến ngày 11 tháng 01 năm 2022 thì được ra viện. Ngày 18 tháng 01 năm 2022, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Ba Đồn có Bản kết luận định giá tài sản số 03/HĐ ngày 18/01/2022 đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, BKS 73K1-020.00: Xe bị hư hỏng: “Ốp trước trái, ốp trước phải, ốp sườn phải, ốp sàn bên trái, ốp sườn trái + Lô gô, ốp đuôi sau dưới, chắn bùn trước, đèn xi nhan trước bên phải, nẹp tấm thông gió trước, tay nắm, bộ đèn sau, gương kiểu. Trị giá tài sản bị hư hỏng, phải sữa chữa và thay mới có giá trị 3.973.000 đồng.

Đối với hành vi của Nguyễn Văn H, dùng tay tát vào mặt bà Lê Thị L làm cho bà L ngã xuống mặt đường bê tông dẫn đến bị thương tại vùng đầu, mặt phải đi sơ cứu điều trị; ngày 24 tháng 02 năm 2022, Trung tâm giám định y khoa - Pháp y tỉnh Quảng Bình có Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 29, kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do các thương tích gây nên hiện tại là 05%; các thương tích do vật tày gây ra, không gây nguy hiểm cho tính mạng”. Ngày 11/3/2022, bà Lê Thị L có đơn xin rút đơn yêu cầu khởi tố đối với hành vi “Cố ý gây thương tích” của Nguyễn Văn H.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã tiến hành thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, sơn màu đen, biển kiểm soát 73K1-020.00, số khung 103017, số máy 0177807 do chị Nguyễn Thị Mỹ L đứng tên chủ sở hữu, xe đã qua sử dụng; 01 cục đá màu xám bạc, dạng đá lèn không rõ hình dạng có bám đất, kích thước (27 x 37)cm. Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã xử L trả lại xe mô tô cho bà Lê Thị L.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Thị L với bị cáo Nguyễn Văn H tự nguyện bàn bạc, thỏa thuận giao xe mô tô cho H sữa chữa và chịu chi phí sữa chữa các bộ phận xe mô tô bị hư hỏng, với tổng số tiền 4.700.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn H bồi thường các khoản chi phí thuốc men, điều trị vết thương cho bà Lê Thị L, số tiền 25.000.000 đồng. Hai bên cam kết sẽ không có thắc mắc, khiếu kiện, khiếu nại gì về mặt dân sự liên quan đến vụ án.

Tại phiên Tòa hôm nay vắng mặt có lý do bị hại bà Lê Thị L, người làm chứng: ông Nguyễn Hữu L, anh Nguyễn Văn M, chị Nguyễn Thùy L; vắng mặt không có lý do người làm chứng: anh Nguyễn Quốc C, anh Lê Minh T, anh Nguyễn Hữu H, ông Nguyễn Thái H, anh Lê Thành Tr, anh Lê Anh D. Xét thấy những người này đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, xét xử vắng mặt họ không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt.

Tại Cáo trạng số 33/CT - VKSBĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn phát biểu luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng Cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) cục đá màu xám bạc, loại đá lèn không rõ hình dạng, có bám đất, kích thước (27x37)cm.

Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.

Tuyên bị cáo phải chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhất trí với toàn bộ nội dung Cáo trạng và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố, không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thự hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, nội dung Cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ việc ông Nguyễn Hữu Nhật đẩy xe rùa chở rau đi chợ bán thì vấp phải cục bê tông dùng để làm chân cắm cọc dựng bạt che quán của vợ chồng ông Nguyễn Hữu L và bà Lê Thị L, trú cùng thôn, giữa ông Nh và ông L xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Anh Nguyễn Quốc C (con trai ông L, bà L) đòi đánh ông Nh nên chị Nguyễn Thị H (con gái ông Nh) gọi điện cho Nguyễn Văn H (con trai ông Nh) về nhà. H bắt xe về, khi đi đến ngã tư giao nhau giữa đường tỉnh lộ 559 với đường liên thôn thuộc thôn T, xã Q thì gặp anh Nguyễn Quốc C, anh Lê Thái H và anh Lê Thành Tr đang dựng chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, sơn màu đen, biển kiểm soát 73K1-020.00 để vào quán mua thuốc tại quán tạp hóa M. Thấy vậy, H chạy đến đánh C, anh C bỏ chạy thì H dùng chân đạp ngã chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, sơn màu đen, biển kiểm soát 73K1 - 020.00, tiếp đó H lấy một cục đá (dạng đá lèn), kích thước (27 x 37)cm nằm ở ngã tư đường rồi dùng hai tay cầm cục đá giơ lên ngang đầu ném hai lần vào chiếc xe mô tô làm cho một số bộ phận của xe mô tô bị vỡ hỏng, gây thiệt hại 3.973.000 đồng. Bà Lê Thị L chạy đến can ngăn thì bị H dùng tay tát vào mặt, gây tổn thương cơ thể 5% nhưng bà L có Đơn xin rút yêu cầu khới tố, về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Như vậy, hành vi của Nguyễn văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thấy: bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, xâm phạm trật tự công cộng, an ninh xã hội. Cần áp dụng mức hình phạt nghiêm mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện sữa chữa, khắc phục hậu quả; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận. Do vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo tại địa phương; xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo cải tạo giáo dục tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe. Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị áp dụng hình Cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 1000.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm ”. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không đảm nhiệm chức vụ, hành nghề gì, nghề nghiệp lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có khả năng thi hành án; cần chấp nhận ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa để miễn chấp hành hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử L đồ vật, vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, sơn màu đen, biển kiểm soát 73K1-020.00, số khung 103017, số máy 0177807, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Mỹ L. Việc Cơ quan điều tra đã xử ý trả lại tài sản cho chị L là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật; tại phiên tòa không ai có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 cục đá màu xám bạc, dạng đá lèn không rõ hình dạng có bám đất, kích thước (27 x 37)cm; đây là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Thị L với bị cáo Nguyễn Văn H tự thỏa thuận: giao xe mô tô cho bị cáo sữa chữa và bị cáo đã sữa chữa xong, với số tiền 4.700.000 đồng; bị cáo bồi thường các khoản chi phí thuốc men, điều trị vết thương cho bà Lê Thị L với số tiền 25.000.000 đồng. Hai bên cam kết sẽ không khiếu kiện, khiếu nại gì về mặt dân sự liên quan đến vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

[9] Về án phí: bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật để sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Về hành vi liên quan khác: Bị cáo Nguyễn Văn H cố ý gây thương tích cho bà Lê Thị L, làm tổn thương cơ thể 5%, bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho bà L, bà L đã làm đơn xin rút yêu cầu khởi tố bị cáo Nguyễn Văn H, thuộc trường hợp quy định tại khoản 8 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự; Điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản L và sử dụng án phí, lệ phí Toà án”.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ; thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Uỷ ban nhân dân xã Quảng Trung, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình phối hợp cùng với gia đình để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cục đá màu xám bạc, dạng đá lèn, không rõ hình dạng, có bám đất, kích thước (27 x 37)cm (Vật chứng có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/6/2022, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Ba Đồn và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn).

5. Về án phí: Xử buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/7/2022, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về