Bản án về tội cố ý gây thương tích và cướp tài sản số 151/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 151/2021/HS-PT NGÀY 09/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 72/2021/HSPT ngày 25/02/2021 đối với bị cáo Phan Công T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13/01/2021 của Tòa án nhân dân Quận 1.

Bị cáo có kháng cáo:

Phan Công T, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Thường trú: 270/103A P, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 270/103A P, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; con ông Phan Ngọc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; Vợ, con: Không; Bị cáo là con thứ tư trong gia đình có bốn người con;

Tiền án: tại bản án số 26/2013/HSST ngày 21/3/2013, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 03/3/2017, chưa xóa án tích do chưa chấp hành hình phạt bổ sung.

Tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 25/7/2003, bị Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tại bản án số 167/2009/HSST ngày 23/6/2009, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 10/01/2011, đã xóa án tích.

Bị bắt, tạm giam ngày 25/3/2020 (có mặt).

Bị hại: Ông Bùi Quang T1, sinh năm 1993; trú tại: 212B/D35Bis Nguyễn T, phường Nguyễn C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

Trong vụ án này, còn có các bị cáo Phạm Kim D, Lê Phương A, Ngô Văn D, Nguyễn Chí T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng có liên quan đến kháng cáo nhưng xét thấy không cần thiết phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm nên Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Phương Anh cho rằng Bùi Quang T1 nợ mình 6.000.000 đồng nên nhờ mẹ ruột là Phạm Kim D đòi giúp.

Khoảng 02 giờ ngày 21/3/2020, D cùng với Phạm Thanh S đang ở Phòng 101 khách sạn Nam Bắc, số ** đường P, Phường 3, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh thì được Phương A báo đã hẹn gặp được T1 nên Diệp rủ Nguyễn Thành N, Phan Công T đi đòi nợ với Diệp. Nam rủ thêm Nguyễn Chí T, Ngô Văn D tham gia đòi nợ và nói Dũng mang theo vũ khí nên D lấy 01 cây kiếm bằng kim loại dài 45cm. Tại khách sạn, D nói với T, Nam, D, T sẽ đi gặp T1 đòi nợ, nếu T1 không trả thì đánh dằn mặt; Sơn đang nghe nhạc nên không nghe thấy nội dung bàn bạc; Phương A nghe và thống nhất nội dung bàn bạc rồi hỗ trợ đặt xe ô tô Grap biển số 51H-204.85 của Đoàn Châu Duy Khải để chở Sơn, Phương A, D, T, N đi đến nhà T1, còn T điều khiển xe mô tô biển số 59K2-037.82 chở Diệp.

Khoảng 04 giờ cùng ngày, cả nhóm đến trước nhà số 212/D28 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Phương Anh điện thoại cho T1 giả vờ nhờ T1 trả tiền xe taxi để gặp mặt. T1 đi bộ ra gặp Phương Anh thì Sơn nói T1 vào xe ô tô để nói chuyện. Lúc này, T1 thấy nhiều thanh niên đi cùng Phương Anh, sợ bị gây thương tích nên bỏ chạy. T điều khiển xe mô tô biển số 59K2- 037.82 chở Tâm, còn Dũng chạy bộ đuổi theo. T1 chạy đến chân cầu thang lô B1 Chung cư 189 Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1 thì bị té ngã nên Dũng đuổi kịp. Dũng hỏi T1 tiền đâu, T1 lấy 01 điện thoại Iphone 6 ra thì bị Tâm vung tay hất điện thoại di động rớt xuống đất, sau đó Dũng cầm kiếm trên tay phải chém, Tâm lao vào dùng tay, chân đánh, T dùng mũ bảo hiểm đánh gây thương tích ở hai tay và vai của T1. T nhặt điện thoại của T1 bị rơi bỏ vào túi. Ông Quách M (bảo vệ chung cư) phát hiện vụ việc nên đã truy hô thì Dũng, Tâm, T bỏ đi. Sau đó, T điều khiển xe mô tô chở Tâm, Dũng ra xe ô tô của Phương Anh rồi cả nhóm quay về phòng 101 khách sạn Nam Bắc. T đưa điện thoại của anh T1 cho Diệp và nói khi nào T1 trả hết nợ thì trả lại, rồi cả nhóm ra về.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 331/TgT.20 ngày 04/5/2020 kết luận: tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích của T1 là 18%, vết thương do vật sắc, vật nhọn, vật có cạnh sắc tác động gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng.

Tại Bản Kết luận giám định số 183/KL-HĐĐGTS ngày 17/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Quận 1 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 trị giá 1.650.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, các bị cáo Diệp, Phương Anh, Dũng, Tâm, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Đối với Phạm Thanh Sơn, Sơn không nghe thấy nội dung Diệp nói với Dũng, Tâm, T, Nam đi đòi nợ, nếu T1 không trả thì đánh dằn mặt. Sơn cũng không thấy Dũng cầm theo kiếm, không biết được sự việc cả nhóm sẽ đánh T1 nếu không trả tiền. Sơn chỉ nghe Diệp nói từ đầu là đi đến nhà T1 để nói chuyện đòi tiền. Lời khai của Sơn phù hợp với lời khai của các bị cáo nên chưa đủ cơ sở để xử lý Sơn về đồng phạm về hành vi “Cố ý gây thương tích”, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 không xử lý Sơn.

Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ: 01 usb chứa hình ảnh camera ghi lại sự việc; 01 điện thoại di động Iphone 6 16GB, số Imei: 352090074716601, đã trả lại cho Bùi Quang T1; 01 cây kiếm dài 45cm;

- Thu giữ của Ngô Văn Dũng: 01 áo khoác tay dài màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 216;

- Thu giữ của Nguyễn Chí Tâm: 01 áo thun tay ngắn màu trắng; 01 quần Jean lửng màu xanh;

- Thu giữ của Phan Công T: 01 áo sơ mi tay ngắn màu đen; 01 quần kaki dài màu trắng; 01 nón kết màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus.

01 xe máy hiệu Yamaha, loại Luvias gắn biển số 59K2-037.82, số khung: RLCL1SK10EY015798, số máy: 1SK1015744. Qua xác minh, biển số 59K2- 037.82 được cấp cho xe mô tô hiệu Suzuki, loại Satria do chị Lê Thị Diễm Thúy đứng tên đăng ký. Hiện chị Thúy không còn cư trú tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã đăng báo mời chị Thúy lên làm việc nhưng chưa có kết quả. Xe mô tô số khung: RLCL1SK10EY015798, số máy: 1SK1015744 được cấp cho xe mô tô hiệu Yamaha, loại Luvias, biển số 59H1- 478.46 do chị Trần Thị Thu Nga đứng tên đăng ký, chị Nga giao cho con chồng là anh Nguyễn Trần Nguyên Đán sử dụng. Khoảng tháng 12/2019, anh Đán bị mất xe mô tô trên tại đối diện bãi gửi xe Saigon bus, đường Phổ Quang, Phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không trình báo sự việc. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã gửi Công văn đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình tiếp nhận xe mô tô trên để điều tra theo thẩm quyền nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình có công văn phúc đáp từ chối tiếp nhận với lý do không có cơ sở chứng minh anh Đán bị mất xe mô tô trên địa bàn Phường 2, quận Tân Bình vào tháng 12/2019; T khai mua xe của 01 người đàn ông tên Hoàng (không rõ lai lịch) tại tiệm bắn cá trên đường Phan Xích Long với giá 8.000.000 đồng, T mới chỉ trả được 5.000.000 đồng nên Hoàng vẫn giữ giấy tờ xe, khi nào trả đủ mới đưa giấy tờ;

- Thu giữ của Phạm Kim Diệp: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Glaxy A20;

- Thu giữ của Lê Phương Anh: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, số Imei: 354871091063095;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Bùi Quang T1 đã nhận bồi thường số tiền 25.000.000 đồng của gia đình Dũng, T và yêu cầu các bị cáo còn lại Diệp, Phương Anh, Tâm bồi thường thêm 45.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 205/CT-VKSQ1 ngày 24 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo:

- Phạm Kim D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 và tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Phan Công T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 và tội “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Lê Phương A, Ngô Văn D, Nguyễn Chí T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13/01/2021 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phan Công T phạm tội “Cố ý gây thương tích” và “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm h khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Phan Công T 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Hình phạt chung bị cáo Phan Công T phải chấp hành là 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên giải quyết về trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ, lãi suất chậm thi hành án, tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 21/01/2021, bị cáo Phan Công T có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 1, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại về tội danh cướp tài sản, khi thấy điện thoại của bị hại rơi xuống đất, bị cáo chỉ lượm mang về đưa lại cho bị cáo Diệp mà không có ý định chiếm đoạt.

Trong vụ án này còn có các bị cáo Phạm Kim Diệp bị xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”; bị cáo Lê Phương Anh bị xử phạt 02 năm 06 tháng tù, bị cáo Ngô Văn Dũng bị xử phạt 03 năm 06 tháng tù, bị cáo Nguyễn Chí Tâm bị xử phạt 03 năm tù cùng về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng không có kháng cáo và không bị kháng nghị.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Phan Công T thừa nhận các hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo không kháng cáo về tội “Cố ý gây thương tích” và thay đổi nội dung kháng cáo đối với tội “Cướp tài sản”. Đồng ý với tội danh “Cướp tài sản” mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo nhưng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thay đổi nội dung kháng cáo. Bị cáo không kháng cáo tội cố ý gây thương tích, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với tội “Cướp tài sản”. Nhận thấy, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 nên đề nghị áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo mức án 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, từ 05 đến 06 năm tù về tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt của hai tội từ 08 đến 09 năm tù.

Bị cáo Phan Công T không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng, mong Hội đồng xét xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận 1, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 1, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Phan Công T đã thừa nhận các hành vi do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, chỉ để nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do bị cáo đã nộp số tiền phạt bổ sung của bản án số 26/2013/HSST ngày 21/3/2013.

Căn cứ vào lời khai của bị cáo Phan Công T và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 21/3/2020, tại trước nhà số 212/D28 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Phan Công T cùng Phạm Kim Diệp, Lê Phương Anh, Ngô Văn Dũng, Nguyễn Chí Tâm đã có hành vi dùng kiếm chém, dùng tay, chân và mũ bảo hiếm đánh bị hại Bùi Quang T1 gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18% theo bản Kết quả giám định pháp y về thương tích số 331/TgT.20 ngày 04/5/2020 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong quá trình tấn công, gây thương tích cho bị hại, khi bị hại đang trong tình trạng không thể chống cự được, đã làm rơi 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 trị giá 1.650.000 đồng xuống đất, bị cáo Phan Công T đã nhặt bỏ vào túi, chiếm đoạt và mang về đưa cho bị cáo Phạm Kim Diệp. Mặc dù bị cáo cho rằng không cố ý chiếm đoạt tài sản là điện thoại của bị hại nhưng việc bị cáo tấn công và lấy tài sản không được sự cho phép của bị hại đã được xem là hành vi chiếm đoạt.

Bản thân bị cáo T có 01 tiền án về tội cướp giật tài sản, phạm tội rất nghiêm trọng chưa được xóa án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Phan Công T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 và “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo Phan Công T phạm tội “Cố ý gây thương tích” thuộc trường hợp “Tái phạm” nên áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đồng thời, áp dụng cho bị cáo T tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại theo điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đúng quy định.

[4] Ngoài các tình tiết giảm nhẹ kể trên, Hội đồng xét xử xét thấy, tài sản bị cáo chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” theo điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt với bị cáo là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

thẩm.

Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13/01/2021 của Tòa án nhân dân Quận 1.

Tuyên bố bị cáo Phan Công T phạm tội “Cố ý gây thương tích” và “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm h khoản 2 Điều 168; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Phan Công T 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung của hai tội là 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2020.

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Phan Công T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1875
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích và cướp tài sản số 151/2021/HS-PT

Số hiệu:151/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về