TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 613/2020/HS-PT NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 536/2020/TLPT- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Phan Hoàng v do có kháng cáo của bị cáo V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 196/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Phan Hoàng V; Sinh ngày 28 tháng 6 năm 1979 tại tỉnh B; Thường trú: Thôn 3, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn Đ và bà Nguyễn Thị Kim O; Bị cáo có vợ tên Đinh Kim H và 01 con, sinh năm 2005; Tiền án: Tại Bản án số 38/2016/HSST ngày 24/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/7/2017).
Tiền sự: Không;
Nhân thân: Tại Bản án số 56/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị bắt, tạm giam từ ngày 18/02/2019 - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Hoàng V và Nguyễn Thị Kiều T (chưa xác định được) có mối quan hệ tình cảm với nhau, đến thuê phòng B005, khách sạn “MK” địa chỉ số 53/1, tổ A, khu phố B, phường C, Quận D để ở chung. Khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 02 tháng 01 năm 2019, Thảo rủ bạn là anh Hoàng Văn T đến phòng số B005, khách sạn “MK” chơi thì Tình đồng ý. Nghi ngờ Thảo có quan hệ với người đàn ông khác, nên V đã theo dõi và rủ Nam (chưa rõ lai lịch) cùng đi, V mang theo 01 con dao bấm bỏ vào túi áo điều khiển xe mô tô biển số: 51V2-6319 chạy trước còn Nam điều khiển xe mô tô hiệu Dream (không rõ biển số) đi sau. Khi đến khách sạn “MK” Nam đưa cho V thêm 01 con dao tự chế cất giấu trong áo khoát rồi vào gửi xe tại bãi xe của khách sạn còn Nam để xe trước cửa khách sạn, V kêu Nam đi lên trước còn V đi lên sau, khi đến phòng B005 V gõ cửa thì T ra mở cửa, V nhìn vào phòng thì thấy có Thảo, 01 nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) đang ngồi trên ghế và Hoàng Văn T đang ngồi trên giường. V lấy dao tự chế cất giấu trong áo khoác chém 01 nhát trúng cổ tay phải của anh T gây thương tích. Lúc này V nhìn thấy T đang cầm điện thoại đi động hiệu Nokia nên V đã giật lấy chiếc điện thoại Nokia của T bỏ vào túi áo khoác. Thấy máu ra nhiều, nên T và V đưa T xuống sảnh khách sạn để đưa đi cấp cứu thì T chống cự, V lấy dao bấm từ trong áo khoác đâm T 01 nhát vào cánh tay phải, 01 nhát vào cánh tay trái và 01 nhát vào đỉnh đầu đồng thời lục soát trong túi quần bên phải của T lấy thêm chiếc điện thoại di động hiệu Asus bỏ vào túi áo khoác. Do áo khoác dính máu, nên V đã cởi áo quăng trước cổng khách sạn MK, rồi chạy ra cửa khách sạn cho Nam chở tẩu thoát. T được đưa đi cấp cứu và đến Công an phường trình báo sự việc. Công an quận 12 đã truy tìm, nhưng không thu giữ được 02 con dao và 02 chiếc điện thoại.
Kết quả nhận dạng: Bị hại Hoàng Văn T xác định được Phan Hoàng V là người đã dùng dao chém mình gây thương tích.
Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 349/TCT.19 ngày 09 tháng 5 năm 2013 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh đối với Hoàng Văn T kết luận: Đa vết thương phần mềm gây rách đứt da, đứt cơ nhị đầu và gân duỗi cổ tay trụ bên phải, đã được điều trị khâu gân, cơ, khâu các vết thương, hiện còn các sẹo lồi: Một vết tại đỉnh đầu trái kích thước 2x(0,2-0,4)cm, có tỉ lệ 02%, thương tích do vật tày, vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra; Một vết sẹo tại mặt trước ngoài 1/3 dưới cánh tay trái kích thước 2x(0,1- 0,5)cm, có tỉ lệ 03%, thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra; Một vết phức tạp tại mặt trước 1/3 dưới cánh tay phải kích thước 10x(0,5-2)cm, có tỉ lệ 08%; Một vết do chém và mổ phức tạp tại mặt trong 1/3 dưới căng tay phải kích thước 14x(0,2-0,6)cm, có tỉ lệ 06%, các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra. Cộng lùi các tỉ lệ trên sẽ ra tỉ lệ 17,79%, làm tròn số sẽ là 18%. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 18%.
Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 239/KLĐG ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng Quận 12 kết luận: Không đủ cơ sở để tiến hành định giá 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 điện thoại di động hiệu Asus, do Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng, bị hại không cung cấp được hóa đơn, chứng từ.
Tại Bản án số: 196/2020/HS-ST ngày 28-9-2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phan Hoàng V 02(hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phan Hoàng V 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tổng hợp hình phạt của hai tội danh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm tù. Tổng hợp hình phạt tù của Bản án này với hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Bản án số 56/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 09 (chín) năm 20 (hai mươi) tháng tù.
Ngoài ra Bản án còn giải quyết phần dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Ngày 01/10/2020, bị cáo Phan Hoàng V có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Hoàng V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt là thỏa đáng. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Bị cáo V không tự bào chữa và tranh luận gì thêm.
Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Phan Hoàng v về nội dung quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 12, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 12, Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Căn cứ lời khai của bị cáo Phan Hoàng V tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:
Xuất phát từ mâu thuẫn, ghen tuông với bị hại Hoàng Văn T nên vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 02/01/2019, tại phòng B005, lầu 3, khách sạn MK, địa chỉ số 51/1 tổ A, khu phố B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Phan Hoàng V đã sử dụng dao tự chế và dao bấm là hung khí nguy hiểm chém, đâm nhiều nhát vào vùng tay và đỉnh đầu của bị hại T, gây thương tích với tỷ lệ thương tật 18%. Đồng thời, lợi dụng tình trạng không thể chống cự được của bị hại, bị cáo V tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt của bị hại 02 điện thoại di động hiệu Nokia và Asus. Bản án hình sự sơ thẩm số 196/2020/HSST ngày 28-9-2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phan Hoàng V về các tội “Cố ý gây thương tích” và “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nội dung kháng cáo của bị cáo Phan Hoàng V, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trước phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã tác động gia đình nộp khắc phục số tiền 22.300.000 đồng để bồi thường thiệt hại cho bị hại, xét đây là tình tiết mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo V. Tuy nhiên, xét mức hình phạt 09 (chín) năm tù về cả hai tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi và hậu quả tội phạm mà bị cáo đã thực hiện. Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân xấu, từng 02 lần bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên cần có mức hình phạt nghiêm như cấp sơ thẩm đã tuyên mới đủ thời gian giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, xét chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Hoàng V.
[5] Đối với việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Tại thời điểm xét xử sở thẩm ngày 28/9/2020, bị cáo Phan Hoàng V đang chấp hành hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Bản án số 56/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu theo Quyết định thi hành án phạt tù số 72/QĐ-CA ngày 12/8/2019. Do đó, việc cấp sơ thẩm tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với bị cáo Phan Hoàng v là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, xét tại thời điểm xét xử phúc thẩm bị cáo Phan Hoàng V đã chấp hành xong án phạt tù của Bản án 56/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 980/GCN ngày 18/10/2020 của Trại tạm giam Thủ Đức, do đó, bị cáo tiếp tục chấp hành hình phạt tù của bản án này.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 345; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Hoàng V và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 55; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phan Hoàng V 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội danh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm tù.
Tổng hợp hình phạt của Bản án này với hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 56/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai Bản án là 10 (mười năm) 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/02/2019.
(Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù của Bản án số 56/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Buộc bị cáo Phan Hoàng V chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích và cướp tài sản số 613/2020/HS-PT
Số hiệu: | 613/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về