Bản án về tội cố ý gây thương tích số 99/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 99/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

75/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Bùi Văn H, sinh năm 1986 tại Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố X, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn R và bà Huỳnh Thị L1; có vợ là Lê Thị Thuỳ L (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Bị hại: Bà Lê Thị Thuỳ L, sinh năm 1984; nơi cư trú: khu phố X, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi của bị cáo:

Bùi Văn H và Lê Thị Thùy L là vợ chồng. Tuy nhiên, hôn nhân không hạnh phúc trong thời gian gửi đơn xin ly hôn thì cả hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cụ thể: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 06-3-2022, sau khi đi làm về, H và chị L mâu thuẫn về việc chị L mua đồ sinh hoạt trong gia đình thiếu nợ nên chủ nợ đòi tiền.

Sau đó cả hai dẫn đến cự cãi trong lúc tức giận, H đã dùng tay phải đánh khoảng ba cái vào vùng đầu của chị L, chị L đưa tay phải lên đỡ thì bị H đánh trúng tay. Chị L bỏ chạy ra ngoài thì bị H đuổi theo tiếp tục dùng chân phải đá liên tiếp khoảng ba cái vào vùng hông trái của chị L sau đó H bỏ đi. Sau khi bị đánh, chị L về nhà mẹ ruột tại xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ở, chị L thấy tay phải và hông trái có vết bầm tím nghĩ là bị thương nhẹ nên chủ quan không đi khám bệnh. Tuy nhiên đến ngày 21-3-2022, khi thấy bị đau nhức nhiều nên chị L đã đi khám tại Trung tâm y tế huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dưong, sau khi khám chị L được bác sĩ chuẩn đoán bị gãy 1/3 dưới xương trụ trái và gãy kín xương sườn số 6,7 bên ngực trái. Đến ngày 02-4-2022, chị L đến Công an thị trấn Lai Uyên trình báo sự việc trên, qua làm việc Bùi Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên, bị hại không có ý kiến gì về hành vi phạm tội của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát gi quyền công tố tại phiên tòa gi nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Bùi Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”.

- Về các vấn đề khác của vụ án:

Theo Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 302/2022/GĐPY ngày 04-5-2022 của Trung tâm pháp y Sở Y tế tỉnh Bình Dương kết luận: Dấu hiệu qua giám định: Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương bầm ngực trái đã lành, gãy kín xương sườn 6, 7 ngực trái đã cal, chấn thương bầm cẳng tay phải đã lành, gãy kín 1/3 xương trụ đã cal. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 11% (mười một phần trăm) theo bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28-8-2019 do Bộ Y tế ban hành về Quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến gì về các vấn đề trên.

- Về trích dẫn Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản Cáo trạng số 75/CT-VKSBB ngày 07 tháng 9 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Về mức hình phạt: đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Bùi Văn H mức án: từ 08 (tám) đến 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 (mười sáu) đến 20 (hai mươi) tháng.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến gì về quyết định truy tố, luận tội của Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đã biết hành vi gây thương tích cho người khác của bị cáo là sai, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn H đã khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 06-3-2022, tại nhà của bị cáo H và bị hại L thuộc khu phố Xà Mách, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, bị cáo Bùi Văn H đã có hành vi dùng tay phải đánh khoảng ba cái vào đầu của bị hại L và dùng chân đá liên tiếp khoảng ba cái vào vùng hông phải của bị hại L dẫn đến gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ thương tích là 11%. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, phù hợp lời khai của bị hại, nội dung bản Cáo trạng và diễn biến tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết việc dùng tay, chân gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với vợ của bị cáo thể hiện thái độ xem thường pháp luật, là hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật cần lên án. Hậu quả là bị cáo đã làm cho bị hại bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 11%. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo không nh ng xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự, trị an ở địa phương. Hội đồng xét xử quyết định xử bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Xét bị cáo H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú r ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo, cho bị cáo H hưởng án treo là đã đủ răn đe, giáo dục bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có ý kiến, không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: bị cáo Bùi Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo, văn bản xác nhận hợp nhất số 02/VBHN-TANDTC ngày 07 tháng 9 năm 2022;

Căn cứ vào Nghị quyết số 02/2018/NQ–HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo;

Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2022/NQ–HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ–HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Mục 1, Phần I Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo) của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H: 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Bùi Văn H cho Ủy ban nhân dân thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

3. Về án phí: bị cáo Bùi Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 99/2022/HS-ST

Số hiệu:99/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về