Bản án về tội cố ý gây thương tích số 86/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Trương Hoàng V, sinh năm 1996 tại Đồng Nai; nơi cư trú: Khu 9, Thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Hữu H (1960) và bà Dương Thị Bé N (1963); sống chung như vợ chồng với chị Trần Thị Cẩm V; có 01 con nhỏ sinh năm 2021; tiền sự|: Không; tiền án: Ngày 26/9/2016, bị Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội Giết người, tại bản án phúc thẩm số 533/2016/HSPT, chấp hành xong hình phạt ngày 19/5/2019, chưa được xóa án tích; tạm giam từ ngày từ ngày 22/4/2021 đến ngày 19/5/2021 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại ngoại cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Ích Q, sinh năm 1995 (vắng mặt) Nơi thường trú: Thôn TB, thị trấn CS, huyện CS, tỉnh GL. Chỗ ở: Khu 7, Thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Võ Thanh P, sinh năm 1983 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu 3, Thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN - Người làm chứng:

+ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu 7, Thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN

+ Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1987 (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 2, xã PL, huyện TP, tỉnh ĐN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Hoàng V đã bị kết án, chưa được xóa án tích.

Khoảng 17 giờ ngày 12/02/2021, V cùng gia đình đến quán ốc Trí tại đường Nguyễn Hữu Cảnh, khu 7, Thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN để ăn tối. Khi đến nơi, V để xe mô tô của mình lấn sang khu vực vỉa hè của khu vui chơi trẻ em do anh Võ Thanh P làm chủ. Do thấy xe của V để gần võng con gái anh P đang nằm nên anh P nhắc nhở V di chuyển xe qua nơi khác thì V và anh P xảy ra mâu thuẫn, cự cãi và xô xát đánh nhau nhưng được can ngăn. Sau đó, V về nhà lấy con dao dài cả cán 55cm (lưỡi dài 35cm, rộng 03cm) để đánh nhau với P. Khi quay lại quán ốc Trí, V nhìn thấy anh Nguyễn Ích Q đang nói chuyện với anh P, V cầm dao đuổi chém anh P nhưng không chém được. Do nghi ngờ anh P gọi Q đến để đánh nhau nên V dùng dao chém 01 cái từ trên xuống trúng vào bắp tay phải. Bị đánh, anh Q bỏ chạy liền bị V đuổi theo chém liên tiếp 03 cái trúng sau lưng anh Q rồi bỏ về nhà. Sau đó V đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú trình báo sự việc.

Hậu quả: Tại bản kết giám định pháp y về thương tích số 0203/TgT/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận: Nguyễn Ích Q bị tổn thương đứt cơ tam đầu cánh tay phải, hạn chế gấp duỗi cẳng tay phải; Sẹo lưng trái kích thước 08X0,3cm; sẹo mạn sườn phải kích thước kích thước 05x0,3cm, sẹo mặt sau cánh tay phải xuống khuỷu tay phải kích thước 13x0,3cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Ích Q là: 16%. Vật gây thương tích là vật sắc.

Tại Cáo trạng số 74/CT-VKSTP-ĐN ngày 09/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo V về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi gây thương tích cho bị hại Q.

Bị hại có đơn xin vắng mặt, gia đình bị cáo đã bồi thường 20.000.000đ, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì thêm. Đề nghị xử lý hành vi của V theo quy định của pháp luật.

Sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 38; điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng tình tiết tăng nặng Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trương Hoàng V từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại dài cả cán 55cm (lưỡi 35cm, rộng 03cm); 01 thanh sắt hộp 02x04cm, dài 1,2m; 02 con dao bằng kim loại màu đen, dài 50cm (lưỡi dài 30cm, rộng 05cm).

Gia đình bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại xong.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận cho hành vi của mình, việc xét xử là không oan sai và nói lời sau cùng như sau: Trong thời gian tạm giam đã nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về hoà nhập với cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Thủ tục tố tụng: Hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng về trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi, tính chất, mức độ phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ mới. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình, lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Vào khoảng 17 giờ ngày 12/02/2021, tại quán Ốc Trí tại Khu 7, Thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN, xuất phát từ mâu thuẫn trong việc bị cáo để xe mô tô gần võng nơi con gái anh P đang nằm nên giữa anh P và bị cáo có xô xát, thách thức đánh nhau. Bị cáo đã dùng dao là hung khí nguy hiểm để đánh nhau với P nhưng không đánh được. Do nghi ngờ anh P gọi thêm anh Q đến để đánh mình nên V dùng dao chém anh Nguyễn Ích Q là bạn của anh P trúng vào lưng và cánh tay phải gây thương tích cho anh Q với tỷ lệ 16%.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 (điểm a khoản 1) Bộ luật Hình sự. Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, không oan sai và không bỏ lọt tội phạm.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khỏe, của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để sửa đổi, rèn luyện bản thân sau này không vi phạm nữa.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; đã bồi thường thiệt hại; bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4.3] Đặc điểm nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt:

Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích; thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên phải áp dụng hình phạt tù mới đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Các biện pháp tư pháp:

[6.1] Bồi thường thiệt hại:

Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại xong, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[6.2] Xử lý vật chứng: 01 con dao bằng kim loại dài cả cán 55cm (lưỡi 35cm, rộng 03cm); 01 thanh sắt hộp 02x04cm, dài 1,2m; 02 con dao bằng kim loại màu đen, dài 50cm (lưỡi dài 30cm, rộng 05cm là công cụ phương tiện, vật liên quan đến vụ án và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân, loại hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Trương Hoàng V phạm tội “Cố ý gây thương tích".

Xử phạt bị cáo Trường Hoàng V 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 12/4/2021 đến ngày 19/5/2021.

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại dài cả cán 55cm (lưỡi 35cm, rộng 03cm); 01 thanh sắt hộp 02x04cm, dài 1,2m; 02 con dao bằng kim loại màu đen, dài 50cm (lưỡi dài 30cm, rộng 05cm) Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú.

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo đúng quy định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 86/2021/HS-ST

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về