Bản án về tội cố ý gây thương tích số 78/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 78/2022/HS-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 07 tháng 4 năm 2022 tại tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Lý Phúc Th (tên gọi khác: Th), sinh năm 1997 tại tỉnh S; hộ khẩu thường trú: ấp T, xã T, huyện Tr, tỉnh S; tạm trú: khu phố Kh, phường Kh, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 11/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Chanh T sinh năm 1975 và bà Trần Thị Sà Q sinh năm 1975; vợ tên Nguyễn Thị Cẩm M sinh năm 1999, có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29 tháng 7 năm 2021 đến ngày 29/9/2021 được trả tự do, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Lý Chanh Th2, sinh năm 2000 tại tỉnh Sóc Trăng; hộ khẩu thường trú: ấp T, xã T, huyện Tr, tỉnh S; tạm trú: khu phố Kh, phường Kh, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Chanh Th sinh năm 1975 và bà Trần Thị Sà Q sinh năm 1975; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29 tháng 7 năm 2021 đến ngày 29/9/2021 được trả tự do, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

3. Tăng Đ1, sinh năm 1999 tại tỉnh S; hộ khẩu thường trú: ấp B, xã L, huyện Tr, tỉnh S; tạm trú: khu phố Kh, phường Kh, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 8/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Đ sinh năm 1978 và bà Sơn Thị Ma R sinh năm 1977; vợ tên Lý Thị Thu H, sinh năm 1999, có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29 tháng 7 năm 2021 đến ngày 29/9/2021 được trả tự do, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

4. Lâm Đ2, sinh năm 1990 tại tỉnh S; hộ khẩu thường trú: ấp B, xã V, huyện Tr, tỉnh S; tạm trú: khu phố Kh, phường Kh, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 5/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm D sinh năm 1969 và bà Lâm Thị H sinh năm 1967; vợ tên Thạch Thị Hồng N, sinh năm 1996, có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018, tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29 tháng 7 năm 2021 đến ngày 29/9/2021 được trả tự do, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Trung V, sinh năm 1974; thường trú: ấp H, xã H, huyện P, tỉnh A, tạm trú: khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh B (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1974; thường trú: khu phố B, phường V, thị xã V, tỉnh S, tạm trú: khu phố Kh, phường Kh, thị xã T, tỉnh B (có mặt).

2. Bà Trần Thị Sà Q, sinh năm 1975; thường trú: ấp T, xã T, huyện Tr, tỉnh S; tạm trú: khu phố Kh, phường Kh, thị xã T, tỉnh B (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Trần Thị Sà Q (tên gọi khác: Tám) là mẹ của Lý Phúc Th và Lý Chanh Th2. Th2 là bạn của Tăng Đ1, Lâm Đ2 và làm chung công ty TNHH Siêu Th. Bà Q, ông Nguyễn Trung V cùng làm chung Công ty M. Quá trình làm việc, giữa ông V và bà Q thường xảy ra mâu thuẫn.

Khoảng 09 giờ ngày 07/01/2021, bà Q và ông V xảy ra mâu thuẫn cãi vã với nhau trong công ty về việc sử dụng xe nâng hàng. Sau đó, bà Q điện thoại nói cho Th biết. Do Th mở loa ngoài điện thoại nên Thạch V2 là bạn làm chung tại Công ty TNHH A nghe được nên V2 nói muốn đi theo Th cùng đến Công ty M để nói chuyện với ông V thì Th đồng ý. Khoảng 10 giờ cùng ngày, Th nảy sinh ý định đến Công ty M đánh ông V nên gọi điện thoại rủ Lý Chanh Th2 cùng tham gia đánh ông V, Th2 đồng ý và hẹn lúc 11 giờ cùng ngày sẽ gặp nhau trước cổng Công ty M thuộc khu phố Kh, phường Kh. Sau đó, Th2 rủ Đ1 và Được cùng tham gia đánh ông V thì Đ1 và Được đồng ý. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Th kêu V2 chạy xe đến cổng chợ Quang V2 II chờ Th còn Th điều khiển xe mô tô Wave Alpha biển số 83P2 – 766.06 đi về phòng trọ lấy dao tự chế dài khoảng 60cm, cán bằng gỗ màu đỏ, lưỡi dao bằng kim loại rồi cất giấu trong người. Sau đó, Th cùng V2 đến cổng công ty M chờ Th2 đến đánh ông V. Th2, Đ1 và Được xin ra khỏi công ty Siêu Th, Đ1 điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Raider biển số 83P3-380.22 chở Th2 còn Được điều khiển xe mô tô Honda Sonic biển số 83Y1-052.44; cả ba người cùng đi về phòng trọ của Được lấy con dao. Khi về phòng trọ, Được lấy con dao tự chế dài khoảng 60cm, cán bằng kim loại, quấn vải đen, lưỡi dao bằng kim loại đưa cho Th2 cất giữ. Sau đó, Đ1 điều khiển xe mô tô chở Th2 còn Được điều khiển xe mô tô đi theo phía sau xe của Được rồi cùng đến Công ty M. Khi đến nơi, Th2 nhìn thấy Th và Thạch V2 đang dừng bên đường đối diện công ty M, tất cả cùng đứng chờ ông V tan ca.

Đến 11 giờ 30 cùng ngày, bà Q đi ra cổng, Th hỏi bà Q ai là người đã chửi bà Q, bà Q nói ông V là người mặc áo đỏ, đội nón đỏ và dặn Th chỉ hỏi lý do chửi bà Q và đừng đánh ông V rồi bà Q đi về phòng trọ ăn trưa. Khi ông V đi ra khỏi cổng công ty, Th đi từ phía sau đến và dùng tay phải cầm dao tự chế chém vào lưng của ông V 01 (một) nhát, ông V quay lại nhìn và lùi ra sau thì bị ngã xuống đất. Th2 cầm dao chạy đến cùng Th chém nhiều cái trúng vào tay, ngón tay và chân của ông V. Trong lúc, Th và Th2 chém ông V thì V2, Đ1 và Được đứng bên đường nhìn. Sau khi chém ông V xong, Th2 đưa dao cho Th cất giữ, Th, Đ1, Được điều khiển xe mô tô rời khỏi hiện trường, còn V2 đi đâu thì Th không rõ. Trên đường đi về, Th vứt bỏ con dao tự chế dùng để chém ông V tại mương nước cạnh tường rào của Công ty Ph và vứt bỏ con dao tự chế dài do Th2 đưa tại bãi cỏ phía sau phòng trọ của Th tại khu phố Kh, phường Kh. Riêng ông V được người trong công ty đưa đi cấp cứu.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh bạc đen biển số 83P3-766.06 - 01 điện thoại di động hiệu Oppo A7 màu xanh, thu của Lâm Đ2.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo CPH1803 màu tím, thu của Tăng Đ1.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo A7 màu đỏ, thu của Trần Thị Sà Q, - 01 (Một) mô tô hiệu Suzuki Raider màu đỏ đen biển số 83P3-380.22.

- 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Thị Sà Q - 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Thị L - 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Thạch Thị Mỹ L - 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic biển số 83Y1 052.44.

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 83Y1 – 052.44.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia mini của Lý Phúc Th.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu tím của Lý Chanh Th2.

Đối với con dao tự chế dài khoảng 60cm, cán bằng gỗ màu đỏ, lưỡi dao bằng kim loại và con dao tự chế dài khoảng 60cm, cán bằng kim loại được quấn vải đen, lưỡi bằng kim loại mà Th và Th2 sử dụng để chém ông V: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành thu giữ vật chứng nhưng không có kết quả.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 328/2021/GĐPY ngày 17/6/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương xác định: bị hại Nguyễn Trung V có các thương tích: vết thương mặt lòng đốt xa ngón I bàn tay phải kích thước 3,5 x 0,1cm, gãy đốt xa ngón I sẹo lành; vết thương mặt sau cánh tay trên khủy tay phải kích thước 09 x 0,3cm đứt bán phần cơ tam đầu, đã khâu nối cơ, sẹo lành; vết thương mặt trước trong cổ - bàn chân phải kích thước 14 x 0,7cm, gãy vỏ mắt cá trong, gãy xương ghe, gãy một phần nền xương bàn I, đứt cơ dạng ngón cái ngắn đã phẫu thuật khâu nối cơ + kết hợp xương ghe sẹo lành; vết thương giữa lưng cắt ngang cột sống kích thước 16,5 × 0,5cm, sẹo lành. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 26%.

Xe mô tô nhân hiệu Honda Wave Alpha màu xanh bạc đen biển số 83P3 - 766.06 do ông Nguyễn Văn N là cha vợ của Lý Phúc Th đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Tháng 12/2019, ông Nhứt cho Th mượn xe này làm phương tiện đi làm việc. Ngày 07/01/2021, Th điều khiển xe này đến cổng Công ty M chém ông V gây thương tích ông N không biết. Ngày 04/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 17 trả lại xe này cho ông N 10/01/2022.

Xe mô tô hiệu Suzuki Raider màu đỏ đen biển số 83P3 – 380.22 do bà Trần Thị Sà Q là mẹ của Lý Chanh Th2 đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Tháng 12/2017, bà Q mua xe này và cho Th2 mượn làm phương tiện đi làm việc. Ngày 07/01/2021, Th2 giao xe này cho Đ1 điều khiển chở Th2 đến phòng của Được lấy con dao tự chế để sử dụng làm hung khí chém ông V. Việc Th2 sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội bà Q không biết. Ngày 04/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 16 trả lại xe này cho bà Q vào ngày 10/01/2022.

Xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic biển số 83Y1 – 052.44 do Lâm Đ2 đứng tên đăng ký chủ sở hữu.

Đối với điện thoại di động hiệu Oppo A7 màu xanh thu giữ của Lâm Đ2 điện thoại di động hiệu Oppo CPH1803 màu tím thu giữ của Tăng Đ1; điện thoại di động hiệu Oppo A7 màu đỏ thu giữ của bà Q và Giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Thị Sà Q, Giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Thị L; Giấy chứng minh nhân dân mang tên Thạch Thị Mỹ L không liên quan đến vụ án. Ngày 04/01/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 11, 12, 13, 14, 15 trả lại các tài sản này cho Lâm Đ2, Tăng Đ1, bà Q, bà Linh và bà L.

Đối với đối tượng Thạch V2: bị cáo Lý Phúc Th khai V2 không biết đến cổng Công ty M để đánh nhau, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên chưa làm việc được với V2 do chưa xác định được nơi cư trú, nên đã ra thông báo truy tìm đối tượng đối với Thạch V2 nhưng chưa có kết quả nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên chưa có cơ sở để xử lý đối với Thạch V2.

Đối với bà Trần Thị Sà Q có hành vi nói cho Th nghe mâu thuẫn giữa bà Q và ông Nguyễn Trung V, đồng thời chỉ cho Th biết đặc điểm nhận dạng của ông V để Th gặp ông V hỏi rõ lý do vì sao chửi bà Q. Việc Th và Th2 dùng dao chém ông V bà Q không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không đề cập xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Trung V yêu cầu các bị cáo Lý Phúc Th, Lý Chanh Th2, Tăng Đ1, Lâm Đ2 bồi thường thiệt với tổng số tiền là 90.000.000 đồng. Th, Th2, Đ1, Được đã bồi thường cho ông V số tiền trên, ông V đã bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại Cáo trạng số 51/CT-VKS.TU ngày 14 tháng 02 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên quyết định truy tố các bị cáo Lý Phúc Th, Lý Chanh Th2, Tăng Đ1, Lâm Đ2 về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của các bị cáo. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà các bị cáo đã thực hiện. Vì vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 xử phạt bị cáo Lý Phúc Th từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù; xử phạt bị cáo Lý Chanh Th2 từ 02 năm 03 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Tăng Đ1 từ 01 năm 09 tháng tù đến 02 năm; tù xử phạt bị cáo Lâm Đ2 từ 02 năm tù đến 02 năm 03 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo đối với các bị cáo, tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic biển số 83Y1 – 052.44 do Lâm Đ2 đứng tên đăng ký chủ sở hữu, 01 điện thoại di động hiệu Nokia mini của Lý Phúc Th; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu tím của Lý Chanh Th2 là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không trình bày tranh luận, đồng ý với luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải, các bị cáo xin lỗi bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo cơ hội được tự cải tạo, lao động, chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra – Công an, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện việc điều tra, truy tố, ban hành quyết định, văn bản tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã truy tố đối với các bị cáo. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 07 tháng 01 năm 2021, khi bà Trần Thị Sà Q thông báo việc bị hại Nguyễn Trung V tiếp tục chửi bà Q (là mẹ của Th), làm bà Q phải khóc, Lý Phúc Th tức giận vì ông V nhiều lần chửi, ức hiếp mẹ mình nên Th rủ Lý Chanh Th2 (là em ruột của Th) đi đánh ông V. Th2 đồng ý và rủ các bị cáo Tăng Đ1, Lâm Đ2 cùng đi đánh nhau. Bị cáo Lý Phúc Th dùng con dao tự chế dài khoảng 60cm, cán bằng gỗ màu đỏ, lưỡi dao bằng kim loại, bị cáo Lý Chanh Th2 dùng con dao tự chế dài khoảng 60cm, cán bằng kim loại, quấn vải đen, lưỡi dao bằng kim loại (lấy tại phòng trọ của bị cáo Lâm Đ2), là hung khí nguy hiểm, chém vào tay phải, chân phải và vùng lưng của ông V, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 26%.

[3] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Vì tinh thần bị kích động do mẹ của bị cáo Th, Th2 là bà Trần Thị Sà Q nhiều lần bị bị hại V chửi, ức hiếp, các bị cáo Th, Th2, Đ1, Đ2 đã dùng hung khí là 02 dao tự chế gây thương tích cho bị hại. Hành vi “dùng hung khí nguy hiểm” gây thương tích cho khác của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại với số tiền 90.000.000 đồng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo.

[6] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương, do đó cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó các bị cáo Lý Phúc Th, Lý Chanh Th2 là người thực hành. Các bị cáo Tăng Đ1, Lâm Đ2 là người giúp sức.

[8] Các bị cáo là người Khmer, nhận thức pháp luật hạn chế, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường toàn bộ thiệt hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Xét thấy, các bị cáo là người có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, công việc ổn định, có khả năng tự cải tạo và việc không bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đủ điều kiện theo quy định của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo, miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện; tạo điều kiện cho bị cáo được tự cải tạo, lao động kiếm sống, chăm sóc gia đình nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, nhân đạo của Nhà nước.

Đối với đối tượng Thạch V2 là người nghe được cuộc nói chuyện giữa bà Trần Thị Sà Q và bị cáo Lý Phúc Th, đồng ý cùng Th đến địa điểm đánh nhau; bị cáo Lý Phúc Th khai V2 không biết đến cổng Công ty M để đánh nhau, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên chưa làm việc được với V2 do chưa xác định được nơi cư trú, nên đã ra thông báo truy tìm đối tượng đối với Thạch V2 nhưng chưa có kết quả; quá trình thu thập lời khai bà Trần Thị Sà Q, các bị cáo Th, Th2, Đ1, Được và tiến hành đối chất giữa bị hại Nguyễn Trung V với bà Trần Thị Sà Q nhưng chưa có căn cứ để xác định việc bà Q chỉ đạo các bị cáo đánh bị hại V nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên chưa đề cập xử lý đối với Thạch V2 và bà Trần Thị Sà Q là phù hợp.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Trung V số tiền 90.000.000 đồng. Bị hại V không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic biển số 83Y1 – 052.44 do Lâm Đ2 đứng tên đăng ký chủ sở hữu, bị cáo Lâm Đ2 dùng xe này để chỉ đường cho các bị cáo Th2, Đ1 đến nhà trọ lấy hung khí, sau đó cùng với Lý Chanh Th2, Tăng Đ1 đi đến Công ty M đánh nhau; điện thoại di động hiệu Nokia mini thu giữ của Lý Phúc Th, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu tím thu giữ của Lý Chanh Th2 là phương tiện các bị cáo liên lạc để rủ rê, lôi kéo đi đánh bị hại, các vật chứng nêu trên là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên về mức hình phạt là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [11] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1, 2 Điều 260; Điều 268; khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao;

1. Tuyên bố các bị cáo Lý Phúc Th, Lý Chanh Th2, Tăng Đ1, Lâm Đ2 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao;

Xử phạt bị cáo Lý Phúc Th 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Lý Chanh Th2 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Tăng Đ1 02 (hai) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm, tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Lâm Đ2 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Lý Phúc Th, Lý Chanh Th2, Tăng Đ1, Lâm Đ2 cho UBND phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước:

01 xe mô tô Honda Sonic biển số 83Y1 -052.44, màu vàng-đen-bạc, số khung 1113LK265126, số máy KB11B1265960, xe không kính chiếu hậu phải, không kiểm tra máy (kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 83Y1- 052.44).

01 điện thoại di động Nokia mini màu đen, số Imei1: 355430922372099, không kiểm tra máy.

01 điện thoại di động Nokia 1280 màu nâu đỏ, số Imei: 356339/05/810777/4, bị phù pin, không kiểm tra máy.

(Vật chứng được ghi nhận trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết:

Buộc các bị cáo Lý Phúc Th, Lý Chanh Th2, Tăng Đ1, Lâm Đ2, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 78/2022/HS-ST

Số hiệu:78/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về