TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 78/2022/HS-PT NGÀY 02/06/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 02 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 53/2022/TLPT-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Huỳnh Phú L, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Huỳnh Phú L, sinh năm 1993 tại Cà Mau.
Nơi cư trú: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Chí T và bà Trần Thị Ti; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Vào ngày 09/3/2021, bị Ủy ban nhân dân xã Tân Dân xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.000.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác (chưa nộp phạt); Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/11/2021cho đến nay; có mặt.
- Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo: Anh Nguyễn Văn D – Bị hại.
- Bị hại: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1976; nơi cư trú: Ấp Tân Phú, xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; nơi cư trú: Ấp Tân Phú, xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; Không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Diển biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 09/9/2021, tại nhà Trần Văn Q ở ấp Tân Phú, xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau có tổ chức nhậu gồm: Trần Văn Q, Huỳnh Phú L, Nguyễn Văn N và Nguyễn Ngọc M. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 10/9/2021, N và Q nói chuyện lớn tiếng, L dùng võ chai bia Sài Gòn chọi về phía N nhưng không trúng, L dùng tay đánh trúng N 4-5 cái nhưng không gây thương tích. Q, M can ngăn nên Lộc bỏ đi về nhà (nhà L cách nhà Q khoảng 200m).
Do bị đánh nên N đi đến nhà của L, thấy N đến L từ trong nhà đi ra cự cải qua lại với N, L dùng tay đánh trúng N 2-3 cái trúng vào đầu nhưng không gây thương tích. Lúc này, Nguyễn Văn D (anh ruột N) nhà ở cạnh nhà của L thấy L và N đứng trước nhà của L cự cải, Diển cầm đoạn tre (gậy an ninh, hai đầu sơn màu đen, đoạn giữa sơn màu trắng) qua hỏi L và N “Làm gì giờ này không ngủ”, N nói “L đánh em”. D bước đến hỏi L “Sao đánh N”, L chạy vào nhà lấy cây rựa bằng kim loại dài 1,2m (cán dài 0,98m, lưỡi dài 2,2m) chạy ra phía trước nhà, D thấy L cầm cây rựa nên cầm điện thoại đưa lên chụp hình, L cầm cây rựa chém trúng ngón tay áp út bàn tay phải D một cái gây thương tích, tiếp tục dùng cây rựa đánh trúng một cái vào tay trái, một cái vào chân trái, một cái vào hông trái của D và một cái trúng vào lưng của N. N, D bỏ chạy ra lộ, L tiếp tục chạy vào nhà lấy một cây dao dùng để sắc chuối dài 0,91m (cán bằng gỗ dài 0,25m, lưỡi bằng kim loại dài 0,39m) chạy ra thì lúc này có ông Hoàng (trưởng ấp) nhà ở gần nhà L đến can ngăn và báo Công an xã đến lập biện bản sự việc.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 256/TgT-21 ngày 29/9/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Cà Mau kết luận thương tích của Nguyễn Văn D như sau:
- 02 vết sẹo mờ 1/3 giữa mặt sau cánh tay trái, kích thước 1: 1,5cm x 0,2cm. Kích thước 2: 2,5cm x 0,2cm; Không xếp tỷ lệ %.
- 01 vết sẹo mờ 1/3 dưới mặt sau cánh tay trái, kích thước: 1,5cm x 0,2cm;
Không xếp tỷ lệ %.
- 01 vết sẹo đốt xa ngón IV bàn tay phải, kích thước: 08cm x 0,6cm; Tỷ lệ 03%.
- Mất 1/3 móng tay ngón IV bàn tay phải; Tỷ lệ 01%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây là: 04%.
Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, quyết định:
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tuyên bố:Bị cáo Huỳnh Phú L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Phú L 07 (bảy) tháng tù.Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các điều 584, 585 và 590 của Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Huỳnh Phú L phải bồi thường thiệt hại cho bị hại Nguyễn Văn D số tiền 6.600.000đ (sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thanh toán, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 14 tháng 3 năm 2022, bị cáo Huỳnh Phú L có đơn kháng cáo kêu oan cho rằng bị cáo chỉ tự vệ vì bị hại xông vào nhà bị cáo; bị cáo chủ động dừng tấn công bị hại; thương tích của bị hại chỉ 04%, không đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 6.600.000đ.
Tại phiên tòa, bị cáo L giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát:
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Huỳnh Phú L; giữ nguyên bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt và phần dân sự.
Bị cáo: Không tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tội danh: Vào ngày 10/9/2021, trước nhà của bị cáo Huỳnh Phú L ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, bị cáo dùng cây rựa bằng kim loại chém trúng ngón tay áp út bàn tay phải Nguyễn Văn D một cái gây thương tích, tiếp tục dùng cây rựa đánh trúng một cái vào tay trái, một cái vào chân trái, một cái vào hông trái của D gây thương tích theo giám định là 04%.
Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ, phúc thẩm, bị cáo thừa nhận thương tích của anh D là do bị cáo gây ra; Song bị cáo kháng cáo cho rằng việc gây thương tích cho bị hại là do bị cáo phòng vệ chính đáng nên bị cáo bị oan.
Thấy rằng, các lời khai của bị cáo tại Công an xã, tại cơ quan điều tra, tờ nhận tội do bị cáo tự viết đều khai nhận: Bị cáo thấy anh D đi đến có cầm cây màu trắng nên bị cáo chạy vào nhà lấy cây “rựa” quay ra; lúc này thấy anh D cầm điện thoại quay phim hoặc chụp hình, do không muốn cho anh D quay phim, chụp hình nên bị cáo dùng cây rựa chém vào tay anh D làm điện thoại rớt xuống. Anh D khom người xuống lấy điện thoại bị cáo quay bề sống lưng cây rựa đánh trúng vào người anh D 02 – 03 nhát, trúng N 01 nhát. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người hiểu biết sự việc (Nguyễn Ngọc M), phù hợp lời khai bị hại, phù hợp hiện trường xảy ra vụ án; Nơi bị cáo gây thương tích cho bị hại là khu vực hành lang nằm phía bên hông nhà của bị cáo; Nơi bị cáo lấy cây “rựa” là cửa sau nhà bếp thông thoáng; Nơi bị cáo lấy “rựa” và nơi bị cáo gây thương tích cho anh D các nhau 23,5m. Các chứng cứ trên đã chứng minh bị cáo Lộc là người chủ động tấn công anh D; Do đó, bị cáo kháng cáo cho rằng bị cáo gây thương tích cho bị hại trong trường hợp phòng vệ là không có cơ sở, không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo.
Hung khí gây án: Cây rựa bị cáo dùng gây thương tích tích cho anh D là hung khí nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Thương tích của anh D được giám định là 04% và anh D có yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo; Bị cáo ngừng việc tấn công anh D khi có sự can ngăn của ông Hoàng (trưởng ấp), chứ không phải bị cáo chủ động ngừng tấn công như bị cáo trình bày. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, tuyên bố bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, không oan cho bị cáo.
[2]. Trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe người khác trái pháp luật. Bản thân bị cáo có 01 tiền sự về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác nghiêm trọng hơn, qua đó, cho thấy bị cáo chưa có thái độ cải sửa bản thân. Diễn biến hành vi phạm tội cho thấy bị cáo có thái độ hung hăng, thích dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn: Cụ thể, đánh anh N ở nhà anh Q, đánh anh D, anh N ở bên hông nhà bị cáo; khi bị hại bỏ chạy, bị cáo tiếp tục lấy hung khí để tiếp tục tấn công. Án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội xử phạt bị cáo 07 (bảy) tháng tù là tương xứng.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo và bị hại thỏa thuận: Bị cáo bồi thường cho bị hại D chi phí điều trị, tiền thuốc, đi lại, mất thu nhập tổng số tiền 6.600.000 đồng. Sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại là tự nguyện, phù hợp với theo quy định pháp luật nên được cấp sơ thẩm công nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thỏa thuận này là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội theo quy định tại khoản 2 Điều 213 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
[3]. Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
[4]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Phú L; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi.
2. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i và s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Các điều 584, 585 và 590 của Bộ luật Dân sự; Điểm b khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Bị cáo Huỳnh Phú L phạm tội “Cố ý gây thương tích”;
Tuyên phạt: Bị cáo Huỳnh Phú L 07 (bảy) tháng tù; Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
- Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Huỳnh Phú L bồi thường thiệt hại cho bị hại Nguyễn Văn Diễn số tiền 6.600.000 đồng (sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu chậm thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Án phí phúc thẩm bị cáo Huỳnh Phú L phải chịu 200.000 đồng.
3. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 78/2022/HS-PT
Số hiệu: | 78/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về