Bản án về tội cố ý gây thương tích số 77/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 78/2021/HSST ngày 24 tháng 9 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐXXST- HS ngày 7 tháng 10 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021 ngày 22/10/2021 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Bá B, sinh năm: 1991; Tên gọi khác: Không Nơi ĐKNKTT: Thôn Thái L, xã Thái H, huyện Triệu S, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; Giới tính: Nam Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Con ông: Nguyễn Bá T, sinh năm 1969 và bà: Lê Thị D, sinh năm 1970 Vợ: Đinh Thị C, sinh năm 1991. Có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án, Tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23 tháng 11 năm 2011 đến ngày 26 tháng 11 năm 2011, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Nguyễn Xuân C, sinh năm 1971 ( Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Thái Lộc, xã TH, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa.

Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1972 ( vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Thái L, xã Thái H, huyện Triệu S, tỉnh Thanh Hóa

- Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1993 ( vắng mặt) HKTT: Thôn Thái L, xã Thái H, huyện Triệu S, tỉnh Thanh Hóa Hiện nay không có mặt tại địa phương.

- Anh Nguyễn Bá H, sinh năm 1992 ( vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Thái L, xã Thái H, huyện Triệu S,Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Chiều ngày 07/6/2011, Nguyễn Bá B, sinh năm 1991 ở thôn Thái Lâm, xã TH, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa nghe tin anh Nguyễn Bá H (là anh họ) bị anh Nguyễn Xuân T ( con trai ông C) đánh gây thương tích. Ấm ức về chuyện anh H bị đánh và có ý định trả thù nên khoảng 19 giờ cùng ngày B đang chơi tại quán ăn nhà anh Nguyễn Xuân C, sinh năm 1990 (là bạn), B rủ C cùng đi xe máy đến nhà H, khi đi qua nhà mình, B bảo C đứng ngoài chờ để B về nhà đi vệ sinh, nhưng thực chất là B vào bếp lấy con dao phay giấu vào trong người rồi đi ra tiếp tục nhờ C chở đến nhà anh Nguyễn Bá H. Khi đến đoạn ngã ba thôn Thái Lâm, B  điện thoại cho anh H nói cùng đi để chỉ nhà anh T và bắt anh T phải xin lỗi H, anh H đồng ý. Khi anh H ra thì Bh bảo C đi bộ về, B dùng xe máy chở anh H đến nhà anh Nguyễn Xuân T. Khi đến nơi cách khoảng 30m thì B dừng xe lại để anh H đứng ngoài trông xe, còn B đi vào nhà anh T. Khi B vào đến nhà, thì thấy anh T đang xay xát lúa trong quán cùng với ông Nguyễn Xuân C, bà Nguyễn Thị D (là bố, mẹ anh T). Lúc này, thấy con chó nhà ông C đang xích ở trước cửa quán, B dùng dao chém vào người con chó, thấy vậy bà Nguyễn Thị D đi ra và nói “sao bay lại chém chó nhà cô”, B trả lời “mi im miệng không tao chém cả mi”, sau đó bà D xông vào giằng co và xô đẩy B ra, anh Nguyễn Xuân T sợ liền bỏ chạy trốn vào phía trong. B xô bà D ngã xuống đống lúa và cầm con dao năm chạy lại nơi ông C đang xay xát lúa, hai bên lời qua tiếng lại, B cầm dao bằng tay phải dơ lên chém một nhát vào cánh tay trái ông C, sau đó B tiếp tục dơ dao lên chém, ông C dơ tay trái lên đỡ thì bị B chém trúng vào cổ tay trái. Ông C quay người bỏ chạy vào trong nhà thì bị B đuổi theo dơ dao lên chém tiếp một nhát nữa vào bả vai bên phải của ông C. Nghe thấy tiếng la hét từ trong nhà ông C, H đứng ngoài sợ nên điều khiển xe máy đi về nhà trước. Sau đó B cầm dao chạy ra ngoài bị bà Nguyễn Thị D đứng ở cửa chặn và ôm giữ B lại. Lúc này B nhặt được nửa viên gạch đập một cái vào đầu bà D sau đó bỏ chạy về hướng Cầu Trắng (TH), B ném con dao xuống sông Nông Giang cách chân cầu khoảng 5m - 6m rồi đi bộ ra đường tỉnh lộ bắt xe khách bỏ trốn vào tỉnh Bình Dương. Còn ông Nguyễn Xuân C được mọi người đưa đếnTrạm y tế xã TH sơ cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa Hợp Lực tỉnh Thanh Hóa từ ngày 07/6/2011 đến 17/6/2011 ra viện. Ngày 19/10/2011 Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã. Ngày 23/11/2011 Nguyễn Bá B đến cơ quan điều tra Công an huyện TS đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Ngày 29/8/2011, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TS ra Quyết định trưng cầu giám định số 49 giám định tỷ lệ thương tích đối với ông Nguyễn Xuân C.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 722/2015/GĐPYTT- PC54 ngày 01/9/2011 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Hiện tại tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 24,89% tạm thời.

Hết thời hạn giải quyết vụ án, cơ quan CSĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, điều tra bị can. Ngày 04/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TS đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ án, điều tra bị can để tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/8/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TS ra quyết định trưng cầu giám định cơ chế hình thành thương tích số 149/CSĐT đối với ông Nguyễn Xuân C gửi Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 557/2021/TTPY ngày 23/8/2021của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: 01 vết ở cổ tay bên trái, đứt gân rộng 5cm, dài 15cm; 01vết trên cánh tay trái rộng 0,5cm, dài 5cm; 01 vết trầy xước sau bả vai phải. Đều do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc cạnh sắc nhọn gây nên.

Bản cáo trạng số 77/CT- VKS, ngày 24 tháng 9 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện TS, truy tố bị cáo Nguyễn Bá B về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ, khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa:

Nguyễn Bá B trình bày là người trực tiếp chém 3 nhát vào cánh tay trái, cổ tay trái và sau bả vai phải của ông C. Anh H và anh C không được bàn bạc, không giúp sức, việc bị cáo chuẩn bị dao năm và mang theo trong người, anh H và C đều không biết. C là người đi cùng Bđến đoạn ngã ba thôn Thái Lâm, xã TH ( địa điểm hẹn gặp anh H) thì C đi bộ về, H không vào nhà ông C mà đứng cách nhà ông C 30m, khi gây thương tích xong, B chạy ra ngoài thì không thấy anh H. Nguyễn Bá B nhận tội và khẳng định cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là hoàn toàn đúng với hành vi phạm tội của mình.

Bị hại là ông Nguyễn Xuân C có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Quá trình điều tra và trong đơn đều trình bày hai bên đã thỏa thuận tiền bồi thường thiệt hại, ông đã nhận đủ số tiền 12.500.000đ ( mười hai triệu năm trăm nghìn đồng), không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà xét thấy hành vi cố ý gây thương tích cho ông C của B có tính chất côn đồ, nên bổ sung quan điểm tại bản luận tội đối với bị cáo Nguyễn Bá B. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá B phạm tội "Cố ý gây thương tích”.

Về điều luật: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo ( do quy định hình phạt nhẹ hơn); điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Bá B từ 24 tháng đến 27 tháng tù, được trừ đi 03 ngày tạm giữ (23/ 11 /2011 đến ngày 26 / 11 / 2011) thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình ông C12.5000.000đ, bị hại không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội và không có ý kiến tranh luận đối với Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của mình, mong Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố , xét xử:

Điều tra viên Công an huyện TS, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện TS trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội của bị cáo: Qua đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở để khẳng định: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt của Nguyễn Bá H ( anh họ bị cáo) và Nguyễn Xuân T (con ông Nguyễn Xuân C), sự việc không liên quan đến B, nhưng B lại ấm ức và nảy sinh ý định trả thù, nên khoảng 19 giờ ngày 07/6/2011, Nguyễn Bá B lấy con dao năm dài khoảng 30cm, cán gỗ, lưỡi dao bằng sắt màu đen đến nhà ông C chém 3 nhát vào người ông C. Hậu quả ông C bị tổn hại sức khỏe 24,89%. Hành vi phạm tội của Nguyễn Bá B có hai tình tiết định khung đó là " Dùng hung khí nguy hiểm" và " Có tính chất côn đồ" được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999, nay được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/ QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều luật số 12/2017/QH14 thì tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định hình phạt nhẹ hơn. Vì vậy hành vi của Nguyễn Bá B được áp dụng theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến an toàn về sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra, nên ngày 19/10/2011 Công an huyện TS, tỉnh thanh Hóa đã phải ra quyết định truy nã số 10/CATS đối với bị cáo.

[4]. Về Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Mặt khác người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đầu thú và được chính quyền địa phương xác nhận từ năm 2011 đến nay bị cáo luôn chấp hành tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, bị cáo tích cực đóng góp cho quỹ ủng hộ phòng chống covid- 19, nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS;

[5] Về trách nhiệm hình sự: Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TS, tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng: Hung khí bị cáo dùng để gây thương tích cho ông C là con dao năm màu đen, dài khoảng 30cm, cán gỗ, bị cáo đã ném con dao xuống sông, cơ quan điều tra đã truy tìm vật chứng nhưng không không thấy, nên không xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận bồi thường 12.500.000đ, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên không xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Bá H là người được B gọi điện đến ngã ba thôn Thái Lâm, xã TH để dẫn B đến nhà anh T ( C) yêu cầu anh T xin lỗi H. H không biết B mang theo dao, không biết B đến nhà ông C ( bố anh T) để gây thương tích cho ông C, nên cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện TS không đủ cơ sở khởi tố H là đúng quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Xuân C là người được B rủ đi đến gặp H, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khẳng định C không biết gì về việc B chuẩn bị con dao năm giấu trong người, không được B bàn bạc về việc gây thương tích cho ông C. Quá trình điều tra, anh H ( người làm chứng) khẳng định C không đi cùng H và B đến nhà ông C, không gây thương tích cho ông C. Vì vậy không có căn cứ để kết luận C là người gây thương tích cho ông C.

Đối với hành vi cầm nửa viên gạch đập vào đầu bà D2 của B, bà D2 không yêu cầu giám định thương tích, không yêu cầu xử lý đối với B nên không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tiểu mục 1, mục I danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo nghị quyết 326.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá B phạm tội " Cố ý gây thương tích"

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 24 (hai tư) tháng tù. Được trừ đi 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 23 tháng 27 ngày.Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên không xét.

5. Về án phí và quyền kháng cáo: Buộc Nguyễn Bá B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết bản án hoặc ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 77/2021/HS-ST

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về