Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 58/2021/HS-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 249/2021/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2021 về tội “Cố ý gây thương tích” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 263/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 05/2022/TA-TB ngày 17/02/2022 đối với các bị cáo:

1. Đinh Thanh P, sinh năm 1986 tại tỉnh Bình Dương; giới tính: nam; nơi thường trú: Tổ 3, khu phố 8, phường U, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ học vấn: 3/12; con ông Đinh Thanh P, sinh năm 1960 và bà Hồ Thị N, sinh năm 1966; bị cáo có 03 anh, em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1998; có vợ tên Lê Thị Minh H, sinh năm 1998; có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Bản án số 101/2010/HSST ngày 27/12/2010 của TAND huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 (Sáu) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (được đặc xá theo Quyết định số 1558/QĐ-CTN ngày 29/8/2013 của Chủ tịch nước). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên toà.

2. Lê Văn Q, sinh năm 1994 tại tỉnh An Giang; giới tính: nam; nơi thường trú: Ấp N, xã Lương A, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang; tạm trú: Tổ 3, khu phố 8, phường Uyên H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; con ông Lê Văn An, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1969; bị cáo có 04 anh, chị, em, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất là bị cáo; bị cáo có vợ tên Lê Thị Quyết T, sinh năm 1993 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền sự, tiền án: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/4/2021 cho đến nay; có mặt tại phiên toà.

B hại:

- Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1991; thường trú: Xóm 1, thôn K, xã M, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; tạm trú: phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Ông Sầm Văn P, sinh năm 1997; thường trú: Xóm 7, xã C, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Nhà trọ P, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Lư Quảng C, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ 2, khu phố 8, phường U, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Bà Lê Thị Quyết T, sinh năm 1993; thường trú: ấp N, xã L, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có mặt.

- Bà Lý Mỹ H, sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ 2, khu phố 8, phường U, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Bà Hồ Thị N, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ 3, Khu phố 8, phường Uyên H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1997; địa chỉ: Xóm M, xã C, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Nhà trọ P, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng: ông Nguyễn Văn P, ông Nguyễn Hoàng K, Đặng Văn H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Đinh Thanh P và Lê Văn Q là bạn với các ông Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng K. Bị cáo Đinh Thanh P quen biết với ông Lư Quảng C là người quản lý quán Karaoke 39 thuộc Khu phố 8, phường U, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 18 giờ ngày 04/10/2020, ông Nguyễn Văn M và ông Sầm Văn P đến hát Karaoke tại phòng VIP1 quán Karaoke 39. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, ông M và ông P yêu cầu thanh toán tiền thì nhân viên quán phát hiện 01 tấm kính cường lực trong phòng VIP1 bị vỡ nên cộng thêm tiền vào hóa đơn thanh toán. Sau khi nhận hóa đơn thì ông M và ông P không đồng ý về cách tính tiền nên xảy ra cự cãi với ông Lư Quảng C và nhân viên phục vụ. Ông C gọi điện thoại cho bị cáo cho Đinh Thanh P đến quán Karaoke 39 hỗ trợ nếu xảy ra xô xát thì bị cáo P đồng ý. Sau đó, bị cáo P gọi điện thoại nhờ bị cáo Q đến nhà để chở bị cáo P đến quán Karaoke 39 giúp ông C thì bị cáo Q đồng ý.

Tại thời điểm bị cáo P gọi điện thì ông Nguyễn Văn P và ông Nguyễn Hoàng K đang ngồi uống rượu tại phòng trọ số 64 do bị cáo Q thuê tại nhà trọ Ú thuộc Khu phố 8, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Do đó, bị cáo Q nhờ ông P và ông K đến nhà chở bị cáo P ra quán Karaoke 39 trước thì ông P và ông K đồng ý. Sau đó, ông p điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở ông K đến nhà chở bị cáo P đi đến quán Karaoke 39. Trước khi đi, bị cáo P vào nhà bếp của mình lấy 01 con dao bằng kim loại giấu vào trong áo rồi cùng với ông P và ông K đến quán Karaoke 39. Khi đến nơi thì ông P và ông K đứng ở khu vực giữ xe của quán, còn bị cáo P đi vào trong quầy tính tiền gặp ông C thì ông C nói khách tính tiền xong rồi và nói bị cáo P về nghỉ.

Sau khi thanh toán tiền thì ông Nguyễn Văn M điều khiển xe mô tô biển số 37H1-339.01 chở ông Sầm Văn P đi về hướng ngã ba Bình Hóa. Cùng lúc này, bị cáo Quắn cũng vừa điều khiển xe mô tô biển số 67N1-192.85 đến quán Karaoke 39 nên bị cáo P nhờ bị cáo Q chở bị cáo P đuổi theo ông M và ông Sầm Văn P. Ông P lập tức điều khiển xe mô tô chở ông K chạy theo xe của bị cáo Q và bị cáo P nhưng khi đến khu vực ngã ba Bình Hóa thì ông P và ông K bị mất dạng, không theo kịp các bị cáo nên quay xe chạy về phòng trọ của bạn ông P để tiếp tục uống rượu.

Khi đến trước cửa tiệm tóc T thuộc khu phố 8, phường U, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì bị cáo P kêu bị cáo Q điều khiển xe mô tô mô tô biển số 67N1-192.85 áp sát vào xe mô tô biển số 3 7H1-3 3 9.01 do ông M điều khiển để bị cáo P chém 01 nhát trúng vào vùng lưng của ông Sầm Văn P và 01 nhát trúng vào vùng tay trái của ông M rồi bỏ chạy. Sau đó, ông M và ông P được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương.

Nhận được tin báo, Công an phường Uyên Hưng đến hiện trường thu thập tài liệu và lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định pháp y số 480/2020/GDPY ngày 13/10/220 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận: Ông Sầm Văn P có thương tích vết thương ngực - lưng trái 14 x 0,1cm; đứt cơ lưng rộng, cơ liên sườn; thấu ngực tràn khí màng phổi trái, đã phẫu thuật khâu cơ, dẫn lưu màng phổi trái; vết dẫn lưu màng phổi trái 1,5 x 1cm, sẹo lành. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 09%.

Tại bản Kết luận giám định pháp y số 5417/C09B ngày 23/10/2020 của Phân viện khoa học hình sự, Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Ông Nguyễn Văn M có thương tích vết thương phần mềm 1/3 giữa cẳng tay trái; vết thương phần mềm 1/3 dưới cẳng tay trái; đứt bó mạch thần kinh quay vị trí ngang qua tổn thương đã được khâu nối; đứt động mạch quay; mẻ 1/3 giữa xương quay tay trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 18%.

Cáo trạng số 125/CT-VKS.TU ngày 15/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Đinh Thanh P và Lê Văn Q về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đinh Thanh P và Lê Văn Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt:

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đinh Thanh P từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Q từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

3. Về trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại: Bị cáo Lê Văn Q và bà Hồ Thị N (là mẹ ruột của bị cáo Đinh Thanh P) đã liên đới bồi thường cho ông Sầm Văn P số tiền 50.000.000 đồng và ông Nguyễn Văn M số tiền 45.000.000 đồng. Quá trình điều tra, ông Nguyễn Văn M và ông Sầm Văn P không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì khác; bà Hồ Thị N không yêu cầu các bị cáo phải trả lại cho bà số tiền đã bồi thường thiệt hại cho các bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao phay bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 12cm, lưỡi dao bằng kim lọai dài 25 cm là vật chứng của vụ án.

- Đối với xe mô tô biển số 67N1-192.85 do bị cáo Lê Văn Q đứng tên đăng ký sở hữu là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Lê Văn Q và bà Lê Thị Quyết T. Khi bị cáo Quắn sử dụng xe làm phương tiện phạm tội thì bà T không biết; quá trình điều tra xác định trị giá xe là 18.500.000 đồng, bà T yêu cầu được sở hữu xe để làm phương tiện đi lại và nộp 14 trị giá xe là số tiền 9.375.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước, đồng thời không yêu cầu bị cáo Q phải trả lại số tiền 15.000.000 đồng đã góp để bồi thường thiệt hại cho các bị hại. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bà T không yêu cầu được quyền sở hữu xe mô tô và không phải nộp 14 trị giá xe để sung vào ngân sách Nhà nước mà yêu cầu được nhận lại 14 trị giá trị của. Đây là ý chí tự nguyện và có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với xe mô tô biển số 37H1-339.01 do ông Nguyễn Văn Đ đứng tên đăng ký sở hữu. Qua xác minh thể hiện, ngày 04/10/2020, ông Đ cho ông Sầm Văn P mượn xe mô tô để đi lại thì bị gây thương tích. Ngày 17/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 124 trả lại xe mô tô biển số 37H1-339.01 cho ông Nguyễn Văn Đ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố và không trình bày lời bào chữa.

Quá trình điều tra, bị hại ông Nguyễn Văn M trình bày: Khoảng 18 giờ ngày 04/10/2020, ông Nguyễn Văn M và ông Sầm Văn P đến quán hát tại phòng VIP 1, quán Karaoke 39. Đen khoảng 20 giờ cùng ngày ông Mạnh và ông Phong yêu cầu thanh toán tiền thì xảy ra cãi vã với người quản lý là ông Lư Quảng C và nhân viên phục vụ của quán. Ông C đã gọi điện nhờ bị cáo cho Đinh Thanh P đến đánh ông M và ông P. Khi ông M chở ông Phong ra khỏi quán Karaoke 39 khoảng 300 mét thì bị cáo Q chạy xe áp sát để bị cáo P chém 01 nhát vào tay ông M và 01 nhát vào lưng ông Sầm Văn P gây thương tích. Bị cáo Q và gia đình bị cáo P đã bồi thường cho ông M 45.000.000 đồng. Ông M không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì khác và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quá trình điều tra, bị hại ông Sầm Văn P trình bày: Khoảng 18 giờ ngày 04/10/2020, ông Nguyễn Văn M và ông Sầm Văn P đến quán hát tại phòng VIP 1, quán Karaoke 39. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày ông M và ông P yêu cầu thanh toán tiền thì xảy ra cãi vã với người quản lý là ông Lu Quảng C và nhân viên phục vụ của quán. Ông C đã gọi điện nhờ bị cáo cho Đinh Thanh P đến đánh ông M và ông P. Khi ông M chở ông P ra khỏi quán Karaoke 39 khoảng 300 mét thì bị cáo Q chạy xe áp sát để bị cáo P chém 01 nhát vào lung của ông P và 01 nhát vào tay của ông M gây thương tích. Bị cáo Q và gia đình bị cáo P đã bồi thường cho ông Sầm Văn P số tiền 50.000.000 đồng. Ông P không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì khác và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên toà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Hồ Thị N trình bày: Bà Nam là mẹ ruột của bị cáo Đinh Thanh P. Bà N và bị cáo Q bồi thường cho ông Nguyễn Văn M số tiền 45.000.000 đồng và ông Sầm Văn P số tiền 50.000.000 đồng. Trong đó bà N góp 80.000.000 đồng, bị cáo Q góp 15.000.000 đồng. Bà N không yêu cầu các bị cáo phải trả lại số tiền 80.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lu Quảng c và bà Lý Mỹ H thống nhất trình bày: Sau khi vụ án xảy ra, bà Hồ Thị N đã đến gặp và vay tiền 02 lần với tổng số tiền là 50.000.000 đồng, tuy nhiên do hoàn cảnh bà N khó khăn, cảm thấy cũng có phần trách nhiệm trong việc các bị cáo gây thương tích cho các bị hại nên không yêu cầu bà N phải trả lại số tiền 50.000.000 đồng đã vay.

Quá trình điều tra và tại phiên toà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn Đ trình bày: xe mô tô biển số 37H1-339.01 do ông Đ đứng tên đăng ký sở hữu. Ngày 04/10/2020, ông Đông cho ông Sầm Văn Phong mượn xe mô tô. Ngày 17/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã trả lại xe mô tô biển số 37H1-339.01 cho ông Đông.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày 10/11/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Thị Quyết T trình bày: xe mô tô biển số 67N1-192.85 do bị cáo Lê Văn Q đứng tên đăng ký sở hữu là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Lê Văn Q và bà T. Khi bị cáo Q sử dụng xe làm phương tiện phạm tội thì bà T không biết. Bà T thống nhất với kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản thị xã Tân Uyên xác định trị giá xe mô tô trên là 18.750.000 đồng và yêu cầu được quyền sở hữu xe để làm phương tiện đi lại và nộp Vi trị giá xe để sung vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 17/3/2022, bà T không yêu cầu được quyền sở hữu xe và phải nộp Vi trị giá xe để sung ngân sách Nhà nước mà yêu cầu được nhận Vi trị giá xe mô tô nêu trên. Đối với số tiền 15.000.000 đồng của vợ chồng bà T và bị cáo Q đã bồi thường thiệt hại thì bà Tâm không có yêu cầu bị cáo Q phải hoàn trả.

Nói lời sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với các bị cáo là đúng thẩm quyền.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người hến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên và Kiểm sát viên trong quá hình điều tra, truy tố là đứng thẩm quyền và đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định pháp y và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 04/10/2020 tại Khu phố 8, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo Lê Văn Q sử dụng xe mô tô biển số 67N1- 192.85 đuổi theo và áp sát xe mô tô biển số 37H1-339.01 do ông Nguyễn Văn M điều khiển chở ông Sầm Văn P để bị cáo Đinh Thanh P sử dụng hung khí chém 01 nhát vào lưng của ông Sầm Văn P gây thương tích 09% và chém 01 nhát vào cẳng tay trái của ông Nguyễn Văn M gây thương tích 18%.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khoẻ của người khác mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Các bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm, thực hiện hành vi có tính chất côn đồ được quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 125/CT-VKSTU ngày 15/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm bình sự: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường khắc phục một phần hậu quả và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[5] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án:

Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, trong đó bị cáo Đinh Thanh P giữ vai trò chính, chuẩn bị công cụ phạm tội, trực tiếp gây ra thương tích cho các bị hại, đã được xoá án tích về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần buộc bị cáo P phải chịu mức hình phạt tù có thời hạn và cao hơn bị cáo Quắn mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với bị cáo Lê Văn Q phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức nên chịu mức hình phạt thấp hơn bị cáo P. Tuy nhiên, cần buộc bị cáo Q phải chịu mức hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Xét thấy mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại: Bị cáo Lê Văn Q và bà Hồ Thị N (Mẹ bị cáo P) đã bồi thường tổng số tiền 95.000.000 đồng và các bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Hồ Thị N không yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền đã bồi thường thiệt hại cho các bị hại. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Thị Quyết T không yêu cầu bị cáo Lê Văn Q phải trả lại số tiền 15.000.000 đồng đã bồi thường thiệt hại cho các bị hại. Ông Lư Quảng C và bà Lý Mỹ H không yêu cầu bà Hồ Thị N phải trả lại số tiền 50.000.000 đồng đã vay. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy:

Đối với 01 con dao phay dài 37cm, trong đó lưỡi dao bằng kim loại dài 25cm, cán dao bằng gỗ dài 12cm là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô biển số 67N1-192.85 do bị cáo Lê Văn Q đứng tên đăng ký sở hữu là tài sản chung của bị cáo và vợ là bà Lê Thị Quyết T. Quá trình điều tra, Hội đồng định giá tài sản thị xã Tân Uyên xác định giá trị xe là 18.750.000 đồng. Việc bị cáo Lê Văn Q sử dụng xe làm phương tiện phạm tội thì bà Tâm không biết. Tại phiên tòa, bà T yêu cầu được nhận ½ trị giá xe, không yêu cầu được quyền sở hữu xe và phải nộp ½ trị giá xe để sung nhân sách Nhà nước. Xét thấy yêu cầu của bà T là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với xe mô tô biển số 37H1-339.01 do ông Nguyễn Văn Đ đứng tên đăng ký sở hữu. Ngày 04/10/2020, ông Đông cho ông Sầm Văn P mượn xe mô tô để đi lại thì bị gây thương tích. Ngày 17/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã trả xe mô tô biển số 37H1-339.01 cho ông Nguyễn Văn Đ là phù hợp.

[9] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Đinh Thanh P và Lê Văn Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đinh Thanh P 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/10/2020.

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Q 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/4/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao phay bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 12cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 25cm.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ trị giá xe mô tô nhãn hiệu Nouvo SX màu xanh bạc, biển số 67N1-192.85 có số khung: 9210FY041086, số máy: E3R7E041088.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc các bị cáo Đinh Thanh P và Lê Văn Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

5.1 Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

5.2 Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

428
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2021/HS-ST

Số hiệu:58/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về