Bản án về tội cố ý gây thương tích số 56/2023/HS-ST

TÒA Á N NHÂN DÂN HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 07/12/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 07/12/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th Thuỷ, tỉnh Ph Th. Toà án nhân dân huyện Th Thuỷ đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 59/2023 ngày 22 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2023/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Dương Đình T; - Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam; Sinh ngày: 16/8/2004; Nơi ĐHKTT: khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th;

Chỗ ở hiện nay: khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12. Bố đẻ: Dương Đình Th, sinh năm 1971, Mẹ đẻ: Đinh Thị H, sinh năm 1980, Cùng trú tại khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Vợ, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Dương Đình T bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th từ ngày 03/8/2023.

2.Tạ D N; - Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01/8/2006; Nơi ĐHKTT: khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th;

Chỗ ở hiện nay: khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 11/12. Bố đẻ: Tạ Đình Ha, sinh năm 1983, Mẹ đẻ: Hồ Thị H, sinh năm 1983, Cùng trú tại khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Vợ, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

- Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Tạ D N bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th từ ngày 03/8/2023.

3.Trần Xuân B; - Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam; Sinh ngày: 19/11/2005; Nơi ĐHKTT: khu 5, xã Sơn Th, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Chỗ ở hiện nay: khu 5, xã Sơn Th, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Bố đẻ: Trần Hồng P, sinh năm 1978, Mẹ đẻ: Nguyễn Thị Hi, sinh năm 1980, Cùng trú tại khu 5, xã Sơn Th, huyện Th Th, tỉnh Ph Th; Vợ, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Trần Xuân B bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Sơn Th, huyện Th Th, tỉnh Ph Th từ ngày 03/8/2023.

(Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa) - Người bào chữa cho bị cáo Tạ D N, Trần Xuân B: Ông Lã Thành C – Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ph Th. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và có bài bào chữa gửi Hội đồng xét xử). - Đại diện trường PTTH Trung Nghĩa nơi bị cáo Tạ D N học tập: ông Đặng Quang Th-Hiệu trưởng(có mặt)

- Người bị hại: Cháu Chu Văn S, Sinh ngày 14/11/2008 (đã nghỉ học)

Người đại diện theo pháp luật: Anh Chu Văn Nh, sinh năm 1980 là bố đẻ (đều có mặt).

Đều có địa chỉ: Khu 11, xã T, huyện Th Thuỷ, tỉnh Ph Th

- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Cháu Đinh Văn H, sinh năm 2007(có mặt).

Địa chỉ: Xóm Liệm, xã L, huyện Th Sơn, tỉnh Ph Th Người đại diện theo pháp luật: Chị Đinh Thị Đ, sinh năm 1984, là mẹ đẻ.

Địa chỉ: Xóm Tân, xã L, huyện Th Sơn, tỉnh Ph Th(có mặt).

2. Cháu Đinh Tiến K, sinh năm 2007; Người đại diện theo pháp luật : Chị Kiều Thị H, Sinh năm 1983, là mẹ đẻ. Đều có địa chỉ: Xóm Lạc Song, xã L, huyện Th Sơn, tỉnh Ph Th (đều có mặt).

3. Cháu Nguyễn Anh T, sinh năm 2007; Người đại diện theo pháp luật: Chị Hoàng Thị H, Sinh năm 1979, là mẹ đẻ. Đều có địa chỉ: Xóm Vũ, xã L, huyện Th Sơn, tỉnh Ph Th(đều có mặt).

4. Cháu Quản Tr Q, sinh năm 2007; Người đại diện theo pháp luật : Chị Đinh Thị T, sinh năm 1976, là mẹ đẻ. Đều có địa chỉ: Khu 1, xã T, huyện Th Thuỷ, tỉnh Ph Th(đều có mặt).

5. Anh Đặng Thái H, sinh năm 2004; địa chỉ: Khu 4, xã T, huyện Th Thuỷ, tỉnh Ph Th(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 02/2023, Đinh Văn H, sinh ngày 22/4/2007, trú tại xóm Liệm, xã L, huyện Th Sơn, tỉnh Ph Th xảy ra mâu thuẫn với Chu Văn S, sinh ngày 14/11/2008, trú tại khu 11, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th. Tối ngày 17/02/2023, Hồng cùng nhóm bạn ở xã L, huyện Th Sơn và xã T, huyện Th Th tụ tập chơi với nhau tại lều trông đồng cá của ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1972 ở khu 5, xã T, huyện Th Th. Tại đây, Hồng kể lại chuyện mâu thuẫn với S và rủ mọi người tối ngày 18/02/2023 sẽ chuẩn bị công cụ, phương tiện đi tìm S để đánh thì cả nhóm đồng ý.

Khoảng 20 giờ ngày 18/02/2023, Trần Xuân B, sinh ngày 19/11/2005, trú tại khu 5, xã Sơn Th, huyện Th Th, tỉnh Ph Th cầm theo 01 thanh sắt dài 3 mét; Dương Đình T, sinh ngày 16/8/2004, trú tại khu 4, xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th mang theo 01 gậy bóng chày bằng kim loại dài 70 cm; Đinh Tiến K, sinh ngày 20/11/2007, trú tại xóm Lạc Song, xã L, huyện Th Sơn, tỉnh Ph Th mang theo 01 thanh sắt dài gần 2 mét, phía đầu có hàn gắn dao bầu (thường gọi là dao phóng lợn) đi đến khu vực ngã 3 đường tỉnh lộ 317G thuộc khu 5, xã T, huyện Th Th rồi cùng với Đinh Văn H, Dương Quốc K, sinh ngày 30/8/2007, trú tại xóm Liệm, Nguyễn Đức Gi, sinh ngày 02/5/2007, trú tại xóm Vũ, Ngô Thái Ha, sinh ngày 20/9/2008, trú tại xóm Lở, Lê Anh T, sinh ngày 19/10/2007, trú tại xóm Vũ, cùng ở xã L, huyện Th Sơn; Khuất Đình Sáng, sinh ngày 20/12/2007, trú tại khu 5, Khuất Quang Lộc, sinh ngày 30/5/2004, trú tại khu 1, Quản Tr Q, sinh ngày 24/8/2007, trú tại khu 4, Đặng Thái H, sinh ngày 17/4/2004, trú tại khu 4, Tạ D N, sinh ngày 01/8/2006, trú tại khu 4, cùng ở xã T, huyện Th Th, Hoàng Văn T, sinh ngày 10/11/2004, trú tại khu 14; Trần Văn C, sinh ngày 24/6/2004, trú tại khu 14, Nguyễn Quốc K, sinh ngày 23/9/2005, trú tại khu 14; Phạm Quốc C, sinh ngày 24/11/2005, trú tại khu 11, cùng ở xã Hoàng Xá, Th Th; Nguyễn Hoàng Ph, sinh ngày 10/8/2005, trú tại khu 4; Nguyễn Bảo L, sinh ngày 02/9/2006, trú tại khu 1, cùng ở xã Sơn Th, Th Th; Nguyễn Văn Th, sinh ngày 14/10/2006, Nguyễn Văn Ph, sinh ngày 01/12/2003; Kiều Bá Thống, sinh ngày 04/4/2004 cùng trú tại xóm Lương Sơn, xã Tinh Nhuệ, huyện Th Sơn đi theo đường tỉnh lộ 317G đến cây xăng Đức Th thuộc khu 8, xã T tìm đánh S nhưng không gặp nên các đối tượng quay về và hẹn nhau ngày 19/02/2023 tiếp tục đi tìm đánh S.

Khoảng 20 giờ, ngày 19/02/2023, Quản Tr Q mang theo 01 thanh kiếm bằng kim loại, dài 55cm cùng với Đinh Văn H, Dương Quốc K, Nguyễn Đức Gi, Ngô Thái Ha, Lê Anh T, Phan Văn Mi, Khuất Đình Sáng, Quản Tr Q, Dương Đình T, Đặng Thái H, Tạ D N tiếp tục đi dọc theo đường tỉnh lộ 317G đoạn từ ngã 3 thuộc khu 5, xã T, huyện Th Th đến cây xăng Đức Th thuộc khu 8, xã T, huyện Th Th để tìm đánh S nhưng không gặp S nên đi về.

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 20/02/2023, Tạ D N sử dụng 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, không lắp sim đăng nhập vào tài khoản mạng xã hội messenger “D Nam” tạo nhóm chát gồm các thành viên là những người đi tìm đánh S vào các ngày 18/02/2023, 19/02/2023 và Nguyễn Văn D, sinh ngày 16/10/2008, trú tại khu 11, xã T, huyện Th Th. Nam đặt tên nhóm là hình mặt cười. Sau đó, Dương Đình T sử dụng 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s plus, màu vàng, lắp sim số điện thoại 0961263X đăng nhập vào tài khoản mạng xã hội messenger đổi tên nhóm thành “ae mái tạt” với mục đích để bàn bạc, chia sẻ các hình ảnh, video về việc các thành viên trong nhóm đi tìm đánh S. Khoảng hơn 20 giờ cùng ngày, Trần Xuân B cầm theo 01 gậy bóng chày bằng kim loại (của Tâm), Nguyễn Anh T mang theo 02 két vỏ chai bia Ha Nội loại 500ml (khoảng 40 vỏ chai bia) rồi cùng với Đinh Văn H, Dương Quốc K, Nguyễn Đức Gi, Đinh Tiến K, Phan Bá Quang, Ngô Thái Ha, Lê Anh T, Phan Văn Mi, Nguyễn Trung Dũng, Khuất Đình Sáng, Khuất Quang Lộc, Quản Tr Q, Dương Đình T, Đặng Thái H, Tạ D N, Hoàng Văn T, Trần Văn C, Nguyễn Quốc K, Phạm Quốc C, Nguyễn Hoàng Ph, Nguyễn Bảo L và Trần C Huy, sinh năm 2003, trú tại khu 4, thị trấn Th Th, Th Th tiếp tục đi theo đường tỉnh 317G đoạn từ khu 5 xã T, huyện Th Th đến cây xăng Đức Th thuộc khu 8, xã T, huyện Th Th để tìm đánh S. Khi đi đến đoạn đường tỉnh 317G thuộc khu 8, xã T, huyện Th Th, các đối tượng gặp anh Nguyễn Hữu Th, sinh năm 2000, anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 2003, cháu Hoàng Mạnh Tr, sinh ngày 31/12/2008, cháu Chu Văn Tú, sinh ngày 15/12/2005 cùng trú tại khu 11, xã T, huyện Th Th. Do nhiều lần không tìm được S và cho rằng anh Th, anh H, cháu Tr và cháu Tú là bạn của S đến các đối tượng đã dùng vỏ chai bia ném và đuổi đánh nhóm anh Th đến gần cây xăng Đức Th thì dừng lại và bỏ về. Về phần anh Th, cháu Tr bị thương tích nhẹ, anh H, cháu Tú không bị thương tích gì, ngày 23/02/2023, anh Th và cháu Tr có đơn xin rút yêu cầu điều tra, từ chối giám định thương tích và không có yêu cầu đề nghị bồi thường.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác định đoạn đường nơi xảy ra vụ án là đoạn đường tỉnh lộ 317G có tổng chiều dài là 350 mét, hai bên đường là cánh đồng và khu đồi cây, dân cư thưa thớt, có 05 hộ dân sinh sống. Trên đoạn đường không có trụ sở cơ quan, doanh nghiệp, xí nghiệp, qua làm việc với các ban ngành đoàn thể, khu dân cư khu 8, xã T và người dân sống xung quanh khu vực xảy ra sự việc xác định sự việc không gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và tâm lý, tinh thần của người dân.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu xác định ngoài hành vi gây thương tích cho anh Nguyễn Hữu Th và cháu Hoàng Mạnh Tr, trong các ngày 18,19,20/02/2023, Đinh Văn H còn có hành vi rủ rê, lôi kéo, Tạ D N lập nhóm chát để bàn bạc, chia sẻ các hình ảnh, video, Trần Xuân B mang theo 01 thanh sắt dài 3m, Dương Đình T mang theo 01 gậy bóng chày bằng kim loại dài 70cm, Đinh Tiến K mang theo 01 thanh sắt dài gần 2m, phía đầu có hàn gắn dao bầu (thường gọi là dao phóng lợn), Quản Tr Q mang theo 01 thanh kiếm bằng kim loại dài 55cm, Nguyễn Anh T mang theo 02 két vỏ chai bia Ha Nội loại 500ml (khoảng 40 vỏ chai bia) nhằm mục đích gây thương tích cho cháu Chu Văn S, hành vi của Nam, Bắc, Tâm, Hồng, Khải, Quân và Tuấn đã vi phạm khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội Tạ D N đủ 16 tuổi 6 tháng 19 ngày, Dương Đình T đủ 18 tuổi 6 tháng 2 ngày, Trần Xuân B đủ 17 tuổi 2 tháng 29, Đinh Văn H đủ 15 tuổi 9 tháng 26 ngày, Đinh Tiến K đủ 15 tuổi 2 tháng 28 ngày, Nguyễn Anh T đủ 15 tuổi 11 tháng 26 ngày, Quản Tr Q đủ 15 tuổi 5 tháng 24 ngày.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được Cơ quan Cảnh sát điều tra, C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Tạ D N, Dương Đình T, Trần Xuân B về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Khoản 6, Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại bản cáo trạng số: 60/CT - VKS ngày 13/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Th Thuỷ đã truy tố các bị cáo Tạ D N, Dương Đình T, Trần Xuân B về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Khoản 6, Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th Thuỷ giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

*Căn cứ: Khoản 6, Điều 134, Điểm i, s khoản 1; Khoản 2, Điều 51; Điểm i, Khoản 1, Điều 52; Điều 36 - Bộ luật hình sự đối với bị cáo Dương Đình T;

*Căn cứ: Khoản 6, Điều 134, Điểm i, s Khoản 1; Khoản 2, Điều 51;

Điểm i, Khoản 1, Điều 52; Điều 91, 98, 100 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Tạ D N và Trần Xuân B. Bị cáo Bắc áp dụng thêm Điều 36 BLHS.

*Tuyên bố: các bị cáo Dương Đình T, Tạ D N, Trần Xuân B, phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

*Xử phạt:

1. Bị cáo Dương Đình T từ 09 tháng đến 12 tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Dương Đình T cho UBND xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Dương Đình T.

Trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

2. Bị cáo Trần Xuân B từ 06 tháng đến 09 tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Xuân B cho UBND xã Sơn Thuỷ, huyện Th Th, tỉnh Ph Th giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Trần Xuân B.

Trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

3. Bị cáo Tạ D N từ 06 đến 09 tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Tạ D N cho UBND xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Không áp dụng khấu trừ thu nhập và không buộc bị cáo Tạ D N không phải lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

*Về trách nhiệm dân sự: Do thiệt hại chưa xảy ra bị hại không đề nghị nên không đặt ra giải quyết.

*Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc gậy bóng chày bằng kim loại, màu sơn đen có chiều dài 70cm, trên thân có chữ “BAT” thu giữ của bị cáo Dương Đình T;

01 dao bấm bằng kim loại, chiều dài 20cm, phần lưỡi dao dài 9cm, mũi dao nhọn thu giữ của cháu Đặng Thái H; 01 thanh kiếm bằng kim loại dài 55cm, phần lưỡi kiếm sắc dài 39cm, mũi kiếm nhọn thu giữ của cháu Quản Tr Q. Nhiều mảnh thủy tinh màu nâu với nhiều hình dạng kích thước khác nhau.

- Tịch thu bán sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s plus, màu vàng của cháu Đinh Văn H; 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, không lắp sim thu giữ của bị cáoTạ D N.

-Tịch thu tiêu huỷ 01 thẻ sim số thuê bao 0961263X của cháu Đinh Văn H.

*Về án phí: Buộc bị cáo Dương Đình T, Trần Xuân B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí cho bị cáo Tạ D N.

* Người bào chữa cho bị cáo Tạ D N và Trần Xuân B gửi bài bào chữa có quan điểm: Xác định VKSND huyện Th Th truy tố các bị cáo là đúng quy định pháp luật; đề nghị HĐXX căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội, vì vậy đề nghị xử phạt các bị cáo hình phạt cải tạo tại địa phương.

Người bị hại, người đại diện xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho cả ba bị cáo.

Các bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có điều kiện cải tạo trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1. Về thủ tục tố tụng: Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra C an huyện Th Thuỷ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Th Thuỷ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho các bị cáo gửi bài bào chữa cho HĐXX, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Bị cáo và người đại diện cho bị cáo, Kiểm sát viên đều đề nghị HĐXX xét xử vắng mặt Người bào chữa và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Sau khi thảo luận HĐXX quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định.

2. Nội dung vụ án : Căn cứ vào hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng tại phiên tòa có đủ căn cứ để khẳng định: Trong các ngày 18,19,20/02/2023, Đinh Văn H đã rủ rê, lôi kéo, Tạ D N lập nhóm “Chát” trên mạng xã hội Messenger để bàn bạc, chia sẻ các hình ảnh, video, Trần Xuân B chuẩn bị 01 thanh sắt dài 3m, Dương Đình T chuẩn bị 01 gậy bóng chày bằng kim loại dài 70cm, Đinh Tiến K chuẩn bị 01 thanh sắt dài gần 2m, phía đầu có gắn dao bầu (thường gọi là dao phóng lợn), Quản Tr Q chuẩn bị 01 thanh kiếm bằng kim loại dài 55cm, Nguyễn Anh T chuẩn bị 02 két vỏ chai bia Ha Nội loại 500ml (khoảng 40 vỏ chai bia) là hung khí nguy hiểm nhằm mục đích gây thương tích cho cháu Chu Văn S. Khi thực hiện hành vi phạm tội, Tạ D N, Dương Đình T, Trần Xuân B đều trên 16 tuối phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Đối với Đinh Văn H, Đinh Tiến K, Nguyễn Anh T, Quản Tr Q khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:

“6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

[1] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, tuy nhiên hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quan hệ nhân thân, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, mặc dù chưa gây hậu quả nhưng gây dư luận xấu trong nhân dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử phạt các bị cáo thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

[2] Xét nhân thân, vai trò của các bị cáo: Các bị cáo Tạ D N, Dương Đình T, Trần Xuân B đều là những người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Về vai trò, bị cáo Nam là người lập ra nhóm chát, bị cáo Tâm sử dụng nhóm để bàn bạc, chia sẻ hình ảnh; bị cáo Nam chuẩn bị công cụ để tham gia gây thương tích cho cháu S.

[3] Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội cháu Chu Văn S (bị hại) đủ 14 tuổi 3 tháng 04 ngày, Tạ D N, Trần Xuân B, Dương Đình T đều trên 16 tuổi nên Nam, Bắc, Tâm phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại Điểm i, Khoản 1, Điều 52 BLHS.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, lần phạm tội này của các bị cáo là phạm tội lần đầu, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó các bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị hại và Người đại diện cho bị hại tại phiên tòa xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho cả ba bị cáo, do đó HĐXX áp dụng Khoản 2, Điều 51 BLHS làm tỉnh tiết giảm nhẹ cho các bị cáo.

Bị cáo Tạ D N, Trần Văn Bắc khi phạm tội đã đủ 16 tuổi và dưới 18 tuổi vì vậy khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Nam và Bắc HĐXX cần áp dụng các quy định về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại chương XII Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt.

[5]Sau khi xem xét nhân thân, đối chiếu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Các bị cáo đều là những người có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đều có nơi cư trú ổn định, tuổi đời còn trẻ, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Để các bị cáo có cơ hội học tập và rèn luyện, vì vậy, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội mà chỉ cần xử phạt các bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ; giao các bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương giám sát giáo dục một thời gian đủ để các bị cáo có điều kiện cải tạo và tu dưỡng bản thân, trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của pháp luật.

Về khấu trừ thu nhập: Do bị cáo Nam chưa đủ 18 tuổi, đang là học sinh nên HĐXX không áp dụng; đối với bị cáo Bắc(khi xét xử đã đủ 18 tuổi) và bị cáo Tâm do không có công việc, thu nhập, không có tài sản nên HĐXX miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

Về áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng: Do bị cáo Tạ D N đang là học sinh nên HĐXX không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng. Đối với bị cáo Trần Văn Bắc(khi xét xử đã đủ 18 tuổi) và bị cáo Tâm trong thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ phải bị áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng theo quy định.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do thiệt hại chưa xảy ra bị hại không đề nghị nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s plus, màu vàng, lắp sim số điện thoại 0961263X thu giữ của Đinh Văn H; 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, không lắp sim thu giữ của Tạ D N; 01 chiếc gậy bóng chày bằng kim loại thu giữ của Dương Đình T; 01 dao bấm bằng kim loại, dài 20cm, phần lưỡi dao sắc dài 9cm, mũi dao nhọn thu giữ của Đặng Thái H; 01 thanh kiếm bằng kim loại dài 55cm, phần lưỡi kiếm sắc dài 39cm, mũi kiếm nhọn thu giữ của Quản Tr Q; Nhiều mảnh thủy tinh màu nâu với nhiều hình dạng kích thước khác nhau là vật chứng của vụ án. Cần tịch thu bán sung ngân sách nhà nước đối với 02 chiếc điện thoại do còn giá trị sử dụng; đối những vật còn lại không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Ngoài ra Cơ quan CSĐT công an huyện Th Th đã trả lại cho các chủ sở hữu các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội là phù hợp.

[8]. Những vấn đề khác: Trong 03 ngày 18, 19,20/02/2023 còn có một số đối tượng liên quan đến vụ án:

- Đối với Đinh Văn H, Đinh Tiến K, Nguyễn Anh T, Quản Tr Q cùng thực hiện hành vi chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội với các bị cáo, tuy nhiên khi thực hiện hành vi thì chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cơ quan CSĐT không xem xét trách nhiệm hình sự là đúng quy định.

- Một số đối tượng có mặt là: Nguyễn Bảo L, Trần C Huy, Đặng Thái H, Nguyễn Văn Ph, Kiều Bá Thống, Nguyễn Trung Dũng, Phan Văn Mi, Khuất Quang Lộc, Hoàng Văn T, Trần Văn C, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Hoàng Ph, Nguyễn Quốc K, Phạm Quốc C, Ngô Thái Ha, Lê Anh T, Nguyễn Đức Gi, Phan Bá Quang, Dương Quốc K, Khuất Đình Sáng, nhưng không chuẩn bị các công cụ phương tiện chỉ đi cùng nên Cơ quan CSĐT C an huyện Th Th không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự các đối tượng là phù hợp. Các đối tượng này đã bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định.

- Đối với hành vi gây thương tích cho anh Th, anh H, cháu Tr và cháu Tú là bạn của S. Về phần anh Th, cháu Tr bị thương tích nhẹ, anh H, cháu Tú không bị thương tích gì, ngày 23/02/2023, anh Th và cháu Tr có đơn xin rút yêu cầu điều tra, từ chối giám định thương tích nên cơ quan CSĐT C an huyện Th Th không xem xét xử lý là phù hợp.

- Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác định đoạn đường nơi xảy ra vụ án là đoạn đường tỉnh lộ 317G có tổng chiều dài là 350 mét, hai bên đường là cánh đồng và khu đồi cây, dân cư thưa thớt, có 05 hộ dân sinh sống. Trên đoạn đường không có trụ sở cơ quan, doanh nghiệp, xí nghiệp, qua làm việc với các ban ngành đoàn thể, khu dân cư khu 8, xã T và người dân sống xung quanh khu vực xảy ra sự việc xác định sự việc không gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và tâm lý, tinh thần của người dân. Nên cơ quan CSĐT C an huyện Th Th không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự các đối tượng là phù hợp.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo Dương Đình T, Trần Xuân B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; do bị cáo Tạ D N đang là học sinh, không có tài sản, thu nhập sống phụ thuộc vào gia đình nên HĐXX miễn án phí cho bị cáo.

[10]Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện cho bị cáo, người bào chữa, bị hại, người đại diện của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người đại diện, được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Các quyết định Tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp; Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ: Khoản 6, Điều 134, Điểm i, s khoản 1; Khoản 2, Điều 51; Điểm i, Khoản 1, Điều 52; Điều 36 - Bộ luật hình sự đối với bị cáo Dương Đình T;

*Căn cứ: Khoản 6, Điều 134, Điểm i, s Khoản 1; Khoản 2, Điều 51;

Điểm i, Khoản 1, Điều 52; Điều 91, 98, 100 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Tạ D N và Trần Xuân B. Bị cáo Bắc áp dụng thêm Điều 36 BLHS.

*Tuyên bố: các bị cáo Dương Đình T, Tạ D N, Trần Xuân B, phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

*Xử phạt:

1. Bị cáo Dương Đình T 09 (chín) tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Dương Đình T cho UBND xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Dương Đình T.

Trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01tuần.

2. Bị cáo Trần Xuân B 06 (sáu) tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Xuân B cho UBND xã Sơn Thuỷ, huyện Th Th, tỉnh Ph Th giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01tuần.

3. Bị cáo Tạ D N 06 (sáu) tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự C an huyện Th Th, tỉnh Ph Th nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Tạ D N cho UBND xã T, huyện Th Th, tỉnh Ph Th giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Không áp dụng khấu trừ thu nhập và không buộc bị cáo phải lao động phục vụ cộng đồng.

*Về trách nhiệm dân sự: Do thiệt hại chưa xảy ra bị hại không đề nghị nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

*Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc gậy bóng chày bằng kim loại, màu sơn đen có chiều dài 70cm, trên thân có chữ “BAT” thu giữ của bị cáo Dương Đình T;

01 dao bấm bằng kim loại, chiều dài 20cm, phần lưỡi dao dài 9cm, mũi dao nhọn thu giữ của cháu Đặng Thái H; 01 thanh kiếm bằng kim loại dài 55cm, phần lưỡi kiếm sắc dài 39cm, mũi kiếm nhọn thu giữ của cháu Quản Tr Q. Nhiều mảnh thủy tinh màu nâu với nhiều hình dạng kích thước khác nhau.

- Tịch thu bán sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s plus, màu vàng của cháu Đinh Văn H; 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, không lắp sim thu giữ của bị cáoTạ D N.

-Tịch thu tiêu huỷ 01 thẻ sim số thuê bao 0961263X của cháu Đinh Văn H.

 (Vật chứng trên chi cục Thi hành án dân sự huyện Th Th đang quản lý).

*Về án phí: Căn cứ: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Điểm d khoản 1 điều 12, điểm a Khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Dương Đình T, Trần Xuân B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí cho bị cáo Tạ D N.

*Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện cho bị cáo, người bị hại, người đại diện cho bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bào chữa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; để yêu cầu TAND tỉnh Ph Th xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 56/2023/HS-ST

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về