Bản án về tội cố ý gây thương tích số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

 Ngày 01 tháng 7 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2022/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXX- HSST ngày 20 tháng 6 năm 2022 đối với:

Bị cáo Nguyễn Văn Th, sinh năm 1990.

Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Họ và tên bố: Nguyễn Văn T, sinh năm 1960. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị C, sinh năm 1963. Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba. Vợ: Nguyễn Thị D, sinh năm 1992. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: + Ngày 03/3/2011, bị Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, xử phạt 1.000.000 đồng. Ngày 08/3/2011, Th đã nộp số tiền phạt trên.

+ Ngày 16/02/2017, bị TAND huyện T xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, án phí HSST 200.000 đồng. Ngày 20/4/2017, Th đã nộp xong án phí HSST. Ngày 16/8/2018 chấp hành xong thời gian thử thách án treo.

Bị cáo bị bắt truy nã, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/4/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T (bị cáo có mặt)

Bị hại: Anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1996. (có mặt) Địa chỉ: Thôn Đông Cốc, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1963. (có mặt, vắng mặt khi tuyên án) Cư trú: Thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

2. Chị Nguyễn Thị D2, sinh năm 1992. (có mặt) Cư trú: Thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

3. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1996. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đông Cốc, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1978. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

2. Bà Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1959. (có mặt) Địa chỉ: Thôn Đông Cốc, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

3. Anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1997. (có mặt) Địa chỉ: Thôn Đông Cốc, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/02/2022, anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1996 trú tại thôn Đông Cốc, xã H, T, Bắc Ninh đến nhà anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1996 ở cùng thôn để chúc tết và ăn uống. Lúc này, tại nhà Mạnh có 05 người gồm bà Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1959 (là mẹ đẻ của anh M); anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1994; anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 đều trú tại thôn Đông Cốc, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh và anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1978, trú tại thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh (là con rể bà Đào). Khi đang ngồi uống rượu, thì Nguyễn Văn Th, sinh năm 1990 trú tại thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh gọi điện cho anh H để chúc tết và rủ anh H đến nhà xem bóng đá. Khi anh H đang nói chuyện với Th thì anh D1 có nói chen vào “Có phải Th con nhà Thưởng không”. Th nghe thấy vậy nói “Thằng ranh con nào chửi bố tao đấy”. Sau đó, anh D1 cầm điện thoại của anh H nói chuyện với Th thì xảy ra mâu thuẫn với nhau do Th nghĩ anh D1 xúc phạm bố của Th. Th và anh D1 thách thức và hẹn đánh nhau. Lúc này, Th mang theo 01 con dao gọt hoa quả, dài khoảng 20 cm, chuôi dao bằng nhựa màu vàng, lưỡi dao làm bằng kim loại trắng sáng, một cạnh sắc, lưỡi dao vát nhọn rồi điều khiển xe mô tô sang nhà anh M để đánh nhau với anh D1. Khi đến nhà anh M, Th nhìn thấy anh D1 ở ngoài cửa nhà anh M. Th liền xuống xe đi đến đứng đối diện với anh D1, tay trái quàng qua cổ, túm áo anh D1 ghì xuống. Còn tay phải Th cầm phần chuôi dao vung về phía người anh D1 khoảng 3 đến 4 lần theo hướng từ dưới lên trên và một số hướng khác nhưng Th không nhớ, trúng vào người anh D1. Hậu quả làm anh D1 bị thương tích rách da, chảy máu ở vùng mặt, đầu và vùng nách phải. Ngoài ra, quá trình xô xát đánh nhau, anh D1 bị rơi vỡ chiếc điện thoại Iphone 6S Plus. Lúc này, anh M và anh H vào can ngăn thì Th không đánh anh D1 nữa. Anh D1 chạy vào bếp nhà anh M cầm 01 con dao dài 37 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại màu đen, bản rộng nhất 06 cm, phần chuôi dao được làm bằng gỗ hình tròn đuổi theo Th thì Th chạy ra ngoài ngõ. Lúc này, Th và anh D1 nhặt gạch ở ngoài ngõ ném nhau nhưng đều không trúng. Sau đó, anh M, anh H và mọi người can ngăn thì 2 bên không đánh nhau nữa. Anh D1 khi quay lại nhà anh M thì bị ngất ngã ra đường. Anh D1 được người dân đưa đi cấp cứu điều trị tại Trung tâm y tế huyện T từ ngày 01/2/2022 đến 04/2/2022 thì ra viện. Còn Th điều khiển xe mô tô đi về nhà. Trên đường về nhà, Th đã vứt con dao sử dụng gây thương tích cho anh D1. Ngày 02/2/2022, anh D1 có đơn trình báo sự việc như đã nêu trên và giao nộp 01 chiếc áo khoác có mũ phía sau, có dòng chữ phía trước ngực “Ramantneellng”, áo có vết rách kích thước 1,5cm x 1cm vị trí sát nách áo bên phải.

Theo giấy chứng nhận thương tích số 04 ngày 09/2/2022 của Trung tâm y tế huyện T, anh D1 có các thương tích: 01 vết thương kích thước (1x0,2) cm ở vùng đỉnh đầu phải; 01 vết rách da phía trên mí mắt trái dưới cung mày trái kích thước (2x1) cm, bờ mép sắc gọn; 01 vết thương gò má trái kích thước (2x1,5) cm bờ sắc gọn. 01 vết rách kích thước (1x1x1) cm tại vị trí dưới hõm nách phải, bờ mép sắc gọn, không thấy tràn khí dưới da.

Ngày 09/02/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định số 36 trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh giám định tỷ lệ % thương tích và cơ chế hình thành vết thương của anh D1.

Ngày 14/02/2022, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 09/TgT kết luận… “Thương tích vùng đỉnh phải, cách đỉnh 13 cm, cách 1/3 giữa cung mày phải 10 cm, kích thước (0,5 x0,1) cm, sẹo màu nâu sẫm, di động, liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ% tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.1. sẹo nhỏ: 1 %; Thương tích 1/3 ngoài trên mi mắt trái, kích thước (1,3x01) cm, bờ mép sắc gọn, sẹo màu nâu sẫm, di động, liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.1 sẹo nhỏ = 1%. Vùng mặt x3 = 3 %; Thương tích gò má trái, dưới mi mắt trái trên diện (3,2x1,5) cm trong diện có sẹo kích thước (2,2x0,7) cm, bờ mép gọn sẹo màu hồng nhạt, di động, liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.2 sẹo trung bình = 2%. Vùng mặt x3 = 6%; Thương tích vùng nách, ngang xương sườn 2,3 phải, kích thước (1,5x1,5)cm, sẹo màu hồng nhạt, di động liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.2 sẹo trung bình = 2%; Chấn động não điều trị ngày thứ 9 điều trị ổn định. Áp dụng chương 1 tỷ lệ % tổn thương do tổn thương xương sọ và hệ thần kinh. Mục II.1 = 1%.

Căn cứ vào Thông tư 22/2019/TT–BYT ký ngày 28/8/2019 quy định phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong pháp y. Theo nguyên tắc cộng tại Thông tư 22/2019/TT – BYT tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12,42 %. Làm tròn: 12%. (Mười hai phần trăm). Cơ chế hình thành thương tích là do tác động ngoại lực bởi vật sắc, nhọn.

Ngày 17/02/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định khởi tố bị can, Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Văn Th về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ Luật hình sự. Quá trình thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam, Th đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 04/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định truy nã số 01 đối với Nguyễn Văn Th. Ngày 17/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành bắt truy nã đối với Nguyễn Văn Th và ra Quyết định đình nã số 02. Quá trình bắt giữ Th đã thu giữ tài sản 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX màu vàng, lắp sim số 0387.532.48x.

Ngày 17/02/2022, Cơ quan CSĐT đã tiến hành khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn Th ở thôn Công Hà, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, kết quả: Thu giữ tại cửa sổ trong phòng khách nhà Th 01 con dao dài 24,2 cm có chuôi bằng gỗ dài 10 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 14,2 cm, bản rộng nhất là 4 cm có một đầu nhọn.

Ngày 18/02/2022, anh M đã giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T 01 con dao dài 37 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại màu đen, bản rộng nhất 06 cm, phần chuôi dao được làm bằng gỗ hình tròn và khai nhận là dao mà anh D1 lấy ở nhà anh M để đuổi theo Th.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra vụ việc, Th và gia đình đã đến xin lỗi và bồi thường cho anh D1 số tiền 20.000.000 đồng. Anh D1 đã đồng ý nhận tiền và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự. Còn đối với chiếc điện thoại Iphone 6S Plus bị rơi vỡ trong quá trình xô xát, Th đã bồi thường mua cho anh D1 chiếc điện thoại khác, vì vậy anh D1 cũng không có yêu cầu gì.

Xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX màu vàng, lắp sim số 0387.532.48x: Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội lần này của Th, Th đề nghị trả lại chiếc điện thoại này cho vợ Th là chị Nguyễn Thị D2, sinh năm 1992 trú tại thôn Công Hà, xã H huyện T. Ngày 11/5/2022, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định xử lý tài sản số 26 trả lại chị Dung chiếc điện thoại này.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKSTT ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Nguyễn Văn Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố. Bị cáo thừa nhận buổi tối ngày 01/2/2022 đã có hành vi dùng dao gọt hoa quả đâm, vung về phía anh D1, gây thương tích cho anh D1. Tuy nhiên bị cáo cho rằng thương tích của anh D1 không nặng như kết luận giám định pháp y đã kết luận. Bị cáo cũng cho rằng thương tích của anh D1 cũng có thể do anh D1 khi ngất bị ngã xuống đường gây lên và do anh D1 bị thương tích từ trước đó. Bị cáo đề nghị được giám định lại thương tích của anh D1. Phía bà C là mẹ đẻ bị cáo Th cho rằng anh D1 hiện nay đang khoẻ mạnh, bản thân anh D1 cũng chỉ nằm viện đến ngày mồng 4/2/2022 thì được ra viện và Bệnh viện cũng đã kết luận anh D1 ổn định bình thường, bà C cũng cho rằng kết luận giám định tỷ lệ thương tích của anh D1 là cao và đề nghị giám định lại thương tích của anh D1. Người bị hại là anh D1 trình bày đúng như nội dung đã khai tại Cơ quan điều tra. Về việc bồi thường thiệt hại giữa bị cáo với anh D1 đã thực hiện xong nên anh D1 không có yêu cầu gì. Anh D1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Th. Anh D1 cũng đề nghị được lấy lại 01 áo khoác mà anh đã giao nộp cho Cơ quan điều tra. Đối với người làm chứng là bà Nguyễn Thị Đ2 và anh Nguyễn Văn D1 là hàng xóm nhà bà Đào đều khai chứng kiến việc anh D1 bị thương tích, còn cụ thể bị cáo Th gây thương tích cho anh D1 như thế nào thì bà Đào, anh D1 không chứng kiến. Tại phiên toà bị cáo Th và bà C xác định số tiền 20.000.000 đồng đã khắc phục bồi thường cho anh D1 là do Th mượn của bà C, nay bà C yêu cầu bị cáo Th phải có nghĩa vụ trả lại bà số tiền này. Hai bên thoả thuận bị cáo Th có nghĩa vụ trả lại bà C số tiền 20.000.000 đồng đã mượn. Đối với chị Dung đã nhận được chiếc điện thoại mà Cơ quan điều tra trả lại Th, chị Dung không có thắc mắc và yêu cầu gì.

Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày bản luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48 Bộ Luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Th từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2022. Về trách nhiệm dân sự do giữa bị cáo với bị hại đã bồi thường xong, anh D1 không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết. Đối với yêu cầu của bà C tại phiên toà đề nghị Th phải trả lại bà số tiền 20.000.000 đồng mà bà C xác nhận là tiền của bà cho Th mượn để khắc phục hậu quả. Tại phiên toà bị cáo Th và bà C tự thoả thuận Th sẽ có trách nhiệm trả bà C số tiền này nên áp dụng điều 463, 466 của Bộ Luật dân sự, Điều 246 của Bộ Luật tố tụng dân sự chấp nhận sự tự nguyện thoả thuận Th có nghĩa vụ trả bà C số tiền 20.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự: Trả lại anh M 01 con dao dài 37 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại màu đen, bản rộng nhất 06 cm, phần chuôi dao được làm bằng gỗ hình tròn mà anh M đã giao nộp cơ quan điều tra. Trả lại bị cáo Th một con dao dài 24,2 cm có chuôi bằng gỗ dài 10 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 14,2 cm, bản rộng nhất là 4 cm có một đầu nhọn. Trả lại anh D1 01 áo khoác mà anh D1 đã giao nộp.

Bị cáo Th nhận tội chỉ có ý kiến tranh luận với Đại diện viện kiểm sát cho rằng mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá cao, và vẫn đề nghị được giám định lại thương tích của anh D1. Anh D1 và chị Dung không có ý kiến tranh luận gì. Đối với bà C sau khi đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội xong đã tự ý bỏ ra khỏi phòng xét xử nên không có ý kiến tranh luận tại phiên toà. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tranh luận, xác định căn cứ vào các tình tiết của vụ án, căn cứ vào nhân thân của bị cáo, vào các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì mức hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo. Đối với yêu cầu giám định lại của bị cáo Th và bà C thấy rằng kết quả giám định thương tích đối với anh D1 phù hợp với lời khai của bị cáo Th, của anh D1, phù hợp với thương tích của anh D1. Không có căn cứ để xác định kết luận giám định thương tích là không khách quan, có vi phạm pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu được giám định lại của bị cáo Th và bà C.

Trong lời nói sau cùng bị cáo Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên toà bị cáo Th thừa nhận do có mâu thuẫn với anh Nguyễn Văn D1 qua nói chuyện điện thoại, nên khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01/2/2022 bị cáo đã có hành vi dùng 01 con dao kiểu dao dùng để gọt hoa quả đâm, vung về phía anh D1 tại khu vực trước cửa nhà bà Nguyễn Thị Đ2 ở thôn Đông Cốc, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh gây lên thương tích cho anh D1. Mặc dù tại phiên toà hôm nay bị cáo cho rằng thương tích của anh D1 theo như kết luận giám định có thể do anh D1 khi bị ngã xuống đường gây lên một phần, và có thể do anh D1 bị từ trước đó. Bị cáo, bà Nguyễn Thị C1 là mẹ đẻ bị cáo cũng có đề nghị giám định lại tỷ lệ thương tích của anh D1 vì cho rằng tỷ lệ thương tích của anh D1 không nặng như kết luận giám định. Xem xét ý kiến này, Hội đồng xét xử thấy rằng; Kết luận giám định pháp y về thương tích của của anh D1 phù hợp với thương tích của anh D1 đã được mô tả tại Giấy chứng nhận thương tích, phù hợp với biên bản xác định thương tích ban đầu của anh D1, phù hợp với lời khai của anh D1 và những người làm chứng về thương tích mà Th gây ra cho anh D1. Kết luận giám định kết luận thương tích của anh D1 là do tác động của ngoại lực bởi vật sắc nhọn. Kết luận giám định thương tích phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, có căn cứ theo quy định của pháp luật. Do vậy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu giám định lại thương tích của anh D1 của bị cáo Th cũng như của bà C. Cũng không có căn cứ để chấp nhận lời khai lại ra của bị cáo Th tại phiên toà cho rằng thương tích của anh D1 có thể đến từ việc anh ngã khi bị ngất, cũng như thương tích có từ trước đó.

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn Th tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với Biên bản xác định thương tích ban đầu (BL 55), phù hợp với Giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện đa khoa huyện T đối với thương tích của anh D1, phù hợp với Kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ để xác định: Do có mâu thuẫn khi nói chuyện điện thoại giữa Nguyễn Văn Th và Nguyễn Văn D1, Th cho rằng anh D1 có lời nói xúc phạm đến bố Th nên Th đã mang theo 01 con dao gọt hoa quả, dài khoảng 20 cm, chuôi dao bằng nhựa màu vàng, lưỡi dao làm bằng kim loại trắng sáng, một cạnh sắc, lưỡi dao vát nhọn đến nhà anh Nguyễn Văn M để đánh anh D1. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01/02/2022, Th đến nhà anh M gặp anh D1, hai bên giằng co và Th đã dùng tay trái quàng qua cổ, túm áo phía sau anh D1 ghì xuống. Còn tay phải Th cầm phần chuôi dao, hướng mũi dao về phía trước rồi đâm, vung dao khoảng 3 đến 4 lần hướng từ dưới lên trên và một số hướng khác làm anh D1 bị thương tích rách da, chảy máu ở mặt, đầu và nách bên phải, tổn thương 12% sức khỏe. Hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích với tỷ lệ thương tích 12% cho anh D1 của Th đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ Luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét về tích chất, nguyên nhân, mức độ phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thì thấy:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, gây nên tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm mất đi tình đoàn kết vốn đã có truyền thống tốt đẹp trong đời sống nhân dân. Bởi vậy hành vi của bị cáo cần phải được đưa ra xử lý kịp thời để có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Về nguyên nhân phạm tội: Nguyên nhân chủ yếu là do bị cáo coi thường pháp luật, mặc dù giữa bị cáo với bị hại cũng không có mâu thuẫn với nhau gay gắt, bị cáo vì chấp trách, không kiềm chế được bản thân trước lời nói của anh D1 đối với bố bị cáo nên hai bên cũng đã nảy sinh to tiếng cãi nhau dẫn đến bị cáo có hành vi gây thương tích cho anh D1. Nguyên nhân cũng một phần đến từ anh D1 khi cũng có lời nói thách đố với bị cáo, nhưng phần chính vẫn là bị cáo có thái độ coi thường pháp luật, coi thường sức khoẻ của người khác.

Về nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Toà án kết án cũng như bị cơ quan Nhà nước xử phạt hành chính. Ngày 16/02/2017, bị TAND huyện T xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ các quyết định của bản án và đã được xoá án tích. Ngày 03/3/2011, bị cáo bị Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, xử phạt 1.000.000 đồng. Ngày 08/3/2011, bị cáo đã nộp số tiền phạt trên. Tuy bản án xét xử đối với bị cáo đã được xoá án tích, cũng như quyết định xử phạt hành chính đã hết thời hiệu tính tiền sự nhưng chứng tỏ bị cáo là người ý thức chấp hành pháp luật kém.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại điều 52 của Bộ Luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo tại phiên toà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi có hành vi gây thương tích cho anh D1, bị cáo cũng đã tự nguyện bồi thường cho anh D1 số tiền để điều trị, bồi dưỡng sức khoẻ. Anh D1 trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây thương tích cho anh D1, bị cáo đã bồi thường cho người bị hại số tiền 20.000.000 đồng. Nay giữa bị cáo và bị hại không có thắc mắc và yêu cầu gì về nội dung bồi thường dân sự nên không xem xét giải quyết. Đối với chiếc điện thoại Iphonne 6S của anh D1 bị rơi vỡ trong quá trình xô xát, anh D1 cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[4]. Liên quan đến số tiền bồi thường cho bị hại, tại phiên toà hôm nay bị cáo Th và bà C xác định số tiền này Th vay của bà C để bồi thường cho anh D1. Bà Chinh có yêu cầu Toà án giải quyết buộc Th phải trả lại bà số tiền này, bị cáo Th cũng nhất trí trả bà C. Hai bên thống nhất Th có nghĩa vụ trả bà C số tiền 20.000.000 đồng này nên cần chấp nhận, công nhận sự tự nguyện thoả thuận giữa bị cáo Th với bà C.

[5]. Tang vật vụ án: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX màu vàng, lắp sim số 0387.532.48x tạm giữ khi bắt giữ Th: Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội lần này của Th, Th đề nghị trả lại chiếc điện thoại này cho vợ Th là chị Nguyễn Thị D2. Cơ quan điều tra đã trả lại chị Dung, chị Dung đã nhận và không có thắc mắc, yêu cầu gì khác.

Đối với số vật chứng thu giữ gồm: 01 con dao dài 37 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại màu đen, bản rộng nhất 06 cm, phần chuôi dao được làm bằng gỗ hình tròn do anh M giao nộp cơ quan điều tra. Đây là tài sản không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho anh M. Đối với 01 chiếc áo khoác có mũ phía sau, có dòng chữ phía trước ngực “Ramantneellng” tạm giữ của anh D1, nay anh D1 yêu cầu được nhận lại nên trả lại anh D1. Đối với 01 con dao dài 24,2 cm có chuôi bằng gỗ dài 10 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 14,2 cm bản rộng nhất là 4 cm có một đầu nhọn không liên quan đến vụ án. Th xác nhận là tài sản của Th và đề nghị được trả lại nên cần chấp nhận trả lại Th con dao này.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 48 Bộ Luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự. Các Điều 463, 466 của Bộ Luật dân sự; Điều 246 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xử.

1. Xử phạt Nguyễn Văn Th 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2022.

Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 01/7/2022 để đảm bảo thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết bồi thường dân sự do bị cáo với bị hại đã thoả thuận xong và không yêu cầu Toà án giải quyết.

Công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo Th với bà C. Bị cáo Th phải có nghĩa vụ trả lại bà C số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng chẵn).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án bên phải thi hành còn phải chịu lãi suất theo lãi suất được quy định tại Điều 468 của Bộ Luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về vật chứng của vụ án: Trả lại anh Nguyễn Văn M 01 con dao dài 37 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại màu đen, bản rộng nhất 06 cm, phần chuôi dao được làm bằng gỗ hình tròn do. Trả lại anh Nguyễn Văn D1 01 chiếc áo khoác có mũ phía sau, có dòng chữ phía trước ngực “Ramantneellng”. Trả lại bị cáo Th 01 con dao dài 24,2 cm có chuôi bằng gỗ dài 10 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 14,2 cm bản rộng nhất là 4 cm có một đầu nhọn (Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 20/6/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Bắc Ninh).

4. Án phí: Bị cáo Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Th, người bị hại là anh Nguyễn Văn D1, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị D2 có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị C1 vắng mặt khi tuyên án, anh Nguyễn Văn M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về