Bản án về tội cố ý gây thương tích số 534/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 534/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 603/2020/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6130/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phùng Trung K; giới tính: nam; sinh năm 1986 tại tỉnh Đắk Lắk; thường trú: thôn K, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: không có nơi cư trú nhất định; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: không; con ông: PVS1 và bà: NTS2; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 03 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2015); tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt, tạm giam ngày: 28/6/2019 (có mặt) - Bị hại:

Ông Nguyễn Lưu Anh T, sinh năm: 1983 (có mặt) Trú tại: số B ấp C1 (số mới: số K7 đường V), xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Diễn biến sự việc:

Lúc 17 giờ 30 phút ngày 19/6/2019, các ông NVN, ĐVL, PĐA, VTB, NVL2, NVS, TT2, NVD và TB1 (có mối quan hệ bạn bè, làm chung tại công trình xây dựng cầu O, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh) đến hát karaoke tại Phòng số 3, quán Karaoke TX (địa chỉ: số B ấp C1 (số mới: số K7 đường V), xã P, huyện N). Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi ông N tính tiền, do các nữ nhân viên phục vụ đòi thêm tiền “boa” nên dẫn đến cãi nhau. Ông L cầm micro đập xuống bàn, làm võ xô đựng đá, bà LTT3 (chủ quán) yêu cầu bồi thường 500.000 đồng. Sau khi tính tiền, tất cả đi xuống sân lấy xe ra về.

Trong lúc ông NVN dắt xe ra cổng quán thì gặp ông NXTP (là con bà T3). Ông P dùng tay tát trúng mặt ông N 01 cái, dẫn đến xô xát, cãi nhau nhưng được ông NTX (là cha ông P) và những người đi cùng can ngăn. Thấy vậy, ông PĐA gọi điện cho ông VVĐ (bạn làm chung tại công trình) biết sự việc, nhờ đến hỗ trợ, nếu có đánh nhau. Lúc này, ông Đ đang ở trong lán công trình xây dựng cầu O, xã P, huyện Nh cùng bị cáo Phùng Trung K, ông CKS4 và một người tên H4 (chưa rõ lai lịch). Ông Đề kể lại sự việc nhóm ông PĐA đang xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau tại quán TX cho bị cáo, ông S4 và đối tượng H4 biết. Sau đó, ông S4 điều khiển xe mô tô chở bị cáo K và đối tượng H4 đến quán TX để hỗ trợ nhóm của PĐA. Trước khi đi, bị cáo K mang theo 01 cây kéo bằng kim loại màu đen, dài khoàng 24cm (phần tay cầm được bọc 01 lớp nhựa màu đen, mũi nhọn), giấu trong người để sử dụng, nếu có đánh nhau.

Tại trước cổng quán TX, do tức giận vì đã tính tiền đầy đủ nhưng ông NVN vẫn bị ông P đánh nên ông L và ông N xô xát với ông X. Thấy vậy, ông Nguyễn Lưu Anh T (con ông X) lấy bình xịt chất lỏng, xịt vào người ông L và ông N. Cùng lúc, ông S4 chở đối tượng H4 và bị cáo đến cổng quán. Thấy vậy, bị cáo xuống xe, cầm kéo bằng tay phải xông vào đâm ông T 01 nhát trúng vùng mạn sườn phải, rồi bị cáo cầm theo cây kéo chạy bộ tẩu thoát.

Sau khi bị bị cáo đâm bằng kéo, ông T làm rơi bình xịt xuống đất (không thu giữ được), lấy 01 cây gậy bằng kim loại đánh lại ông L và ông N; ông B2 lấy mũ bảo hiểm ném về phía ông T; bà T3 sử dụng bình chữa cháy mini xịt vào nhóm của ông N; bà PTLH7 (nhân viên của quán) sử dụng cây gỗ và 01 người tên C (chưa rõ lai lịch, là nhân viên của quán) sử dụng cây lau nhà tấn công lại ông N và ông L, nhóm của N lên xe chạy về lán xây dựng công trình cầu Rạch Rộp, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, còn ông T được gia đình đưa đến Bệnh viện 115 cấp cứu, chữa trị thương tích.

Quá trình điều tra, bị cáo Phùng Trung K giao nộp cây kéo bằng kim loại màu đen được xác định là hung khí bị cáo sử dụng đâm ông T.

Ngày 28/6/2019, bị cáo Phùng Trung K bị bắt tạm giam theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 13/LBBCĐTG-CSHS ngày 26/6/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè (BL 10, 25). Tại Cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

 Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 566/TgT.19 ngày 01/7/2019 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh (BL 28-30) đối với ông Nguyễn Lưu Anh T thể hiện:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương vùng mạn sườn phải gây thủng da, thủng cơ hoành, thủng gan, rách thanh cơ tá tràng, đã được phẫu thuật mở bụng khâu cơ hoành, khâu gan, khâu tá tràng, hiện còn:

+ Một vết sẹo còn đóng mày do đâm kích thước 2,5x(0,1-0,2)cm.

+ Một vết mổ còn đóng mày đường giữa bụng trên rốn kích thước 16x0,2cm.

+ Một vết dẫn lưu ổ bụng còn băng kín.

+ Tình trạng ổn định.

2. Theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 65%.

3. Kết luận khác: Thương tích do vật sắc nhọn tác động gây ra, rất nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 566.B/TgT.19-20 ngày 20/02/2020 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh (BL 443-444) đối với ông Nguyễn Lưu Anh T thể hiện: Hung khí đã trả lời trong bản Kết luận giám định pháp y số 566/TgT.19 Cây kéo như quí cơ quan cung cấp qua ảnh gây ra được thương tích này.

Tại Bản Kết luận giám định số 936-20/KLGĐ-SV ngày 08/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 445) thể hiện:

1. Máu Nguyễn Lưu Anh T cần giám định: thuộc nhóm máu B.

2. Cây kéo cần giám định: có dính máu người, không đảm bảo chất lượng, không xác định được nhóm máu.

Tại bản Cáo trạng số 347/CT-VKS-P2 ngày 24/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Phùng Trung K về “Tội Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phùng Trung K khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Bị cáo cho biết khi nghe tin ông L bị đánh, bị cáo thấy có cây kéo để sẵn trên bàn gần chỗ bản thân ngồi nên đem theo phòng thân.

Bị hại Nguyễn Lưu Anh T cho biết hiện có yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 200.000.000 đồng, trong đó bao gồm số tiền 21.669.000 đồng đã yêu cầu trước đây tại giai đoạn điều tra.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố; sau khi phân tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt Phùng Trung K từ 08 đến 09 năm tù, buộc bị cáo bồi thường theo quy định pháp luật. Ngoài ra, Kiểm sát viên cũng đề nghị xử lý phần tang vật theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo cũng không có ý kiến, khiếu nại đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh có Yêu cầu phân công người bào chữa số 827-41 ngày 26/5/2020 (BL 454) đề nghị Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh phân công người bào chữa cho bị cáo Phùng Trung K. Trên cơ sở Văn bản số 334/ĐLS-VP ngày 02/6/2020 của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh về việc phân công bào chữa, ngày 04/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh có Thông báo về việc đăng ký bào chữa số 827-28 của Luật sư Võ Tuấn Anh đối với bị cáo K (BL 455). Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ngày 14/12/2020, Luật sư Võ Tuấn Anh có Thông báo về việc không tiếp tục bào chữa, nội dung: Luật sư chỉ tham gia giai đoạn điều tra theo yêu cầu chỉ định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Xét thấy hiện bị cáo Phùng Trung K bị truy tố theo điểm d khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, bản thân bị cáo là người trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự, không thuộc trường hợp phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra có sự chứng kiến của người bào chữa (BL 477-480) nên quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo được đảm bảo. Tại phiên tòa, bị cáo cũng không có ý kiến đối với Thông báo về việc không tiếp tục bào chữa nêu trên.

[2] Quá trình điều tra vụ án và xét hỏi tại phiên tòa thể hiện lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; vật chứng thu giữ được, Kết luận giám định pháp y về thương tích… Hội đồng xét xử có căn cứ xác định nội dung vụ án như bản Cáo trạng ghi nhận, cụ thể:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/6/20219, tại trước cổng quán karaoke TX (địa chỉ: số B ấp C1, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh), vì ông NVN và ông ĐVL xô xát với ông Nguyễn Lưu Anh T trong việc tính tiền hát karaoke, bị cáo Phùng Trung K đã sử dụng kéo bằng kim loại màu đen, dài khoảng 24cm đâm ông T 01 nhát trúng vào vùng mạn sườn phải, gây thương tích với tỉ lệ tổn thương cơ thể qua giám định là 65%.

Như vậy, bị cáo Phùng Trung K đã có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật. Bị cáo nhận thức được việc dùng kéo sắc nhọn đâm vào cơ thể của người khác là nguy hiểm cho sức khỏe của người khác nhưng do thiếu ý thức tôn trọng pháp luật nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe con người được pháp luật đặc biệt bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội.

Từ các lập luận trên, đối chiếu các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận bị cáo Phùng Trung K phạm “Tội Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Vì nguyên nhân mâu thuẫn trong cuộc sống thường ngày giữa NVN, ông ĐVL và ông Nguyễn Lưu Anh T, Bị cáo Phùng Trung K sử dụng kéo là hung khí nguy hiểm (được nêu tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017), gây nên thương tích cho bị hại (là người trước đó không quen biết và không có mâu thuẫn với bị cáo), thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường sức khỏe con người được pháp luật bảo vệ (hành vi có tính chất côn đồ được nêu tại điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Qua giám định, tỉ lệ tổn thương cơ thể do hành vi phạm tội của bị cáo gây nên cho bị hại là 65%, thuộc trường hợp “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” quy định tại điểm d khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn (Xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Quảng Hiệp, huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk – BL 446-447) nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, ông Nguyễn Lưu Anh T yêu cầu bị cáo bồi thường 21.669.000 đồng chi phí điều trị tại bệnh viện và bồi thường mất sức lao động theo tỉ lệ thương tật 65% (BL 481-482), kèm theo Bảng thống kê tiền viện phí (BL 483): Tiền trong bệnh viện 15.169.000 đồng; Tiền xe cứu thương đi và về:

1.500.000 đồng; Tiền thuê người nuôi: 5.000.000 đồng; Tổng cộng: 21.669.000 đồng Ngày 15/12/2020, ông Nguyễn Lưu Anh T có Đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại với nội dung yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí cho việc cứu chữa và bồi thường tổn thất về tinh thần theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, ông T xác định hiện có yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 200.000.000 đồng, số tiền này đã bao gồm số tiền 21.669.000 đồng ông yêu cầu trước đó tại giai đoạn điều tra và tiền bồi thường tổn thất về tinh thần. Ông cho biết thu nhập bản thân mỗi tháng là 18.000.000 – 19.000.000 đồng nhưng do bản thân kinh doanh tự do nên hiện không có chứng từ thể hiện thu nhập này.

Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên một phần có căn cứ nên chấp nhận, theo đó, buộc bị cáo Phùng Trung K có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại Nguyễn Lưu Anh T số tiền 111.169.000 đồng, gồm: Phần thu nhập bị mất trong thời gian điều trị 15.000.000 đồng (= 5.000.000 đồng/ tháng x 3 tháng); tiền bồi thường tổn thất về tinh thần 74.500.000 đồng (= 50 lần mức lương cơ sở = 50 x 1.490.000 đồng/ tháng); số tiền 21.669.000 đồng (ông T yêu cầu tại giai đoạn điều tra).

[4] Về một số nội dung khác:

- Đối với việc các ông NVN, ĐVL, PĐA, VTB, NVL2, NVS, TtT2 NVD, TB2 đã có hành vi xô xát với ông NXTP tại trước cổng quán TX; việc ông VVĐ kể lại sự việc nhóm của ông PĐA đang xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau tại quán TX cho bị cáo Phùng Trung K, ông CKS4 và đối tượng H4 biết để đến hỗ trợ nếu có đánh nhau; việc ông S4 điều khiển xe mô tô chở bị cáo và đối tượng H4 đến quán TX để hỗ trợ nhóm của ông PĐA: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện việc xác minh, ủy thác điều tra cũng như gửi thông báo truy tìm để điều tra làm rõ có hay không hành vi đồng phạm “Tội Cố ý gây thương tích” hoặc “Tội Gây rối trật tự công cộng”; sau khi điều tra làm rõ, nếu có căn cứ thì sẽ xử lý (BL 458-472).

- Đối với việc ông NXTP dùng tay tát 01 cái trúng mặt ông NVN; ông Nguyễn Lưu Anh T sử dụng 01 cây gậy bằng kim loại đánh lại ông ĐVL và ông NVN; bà LTT3 sử dụng bình chữa cháy mini xịt vào nhóm của ông N; bà PTLH7 sử dụng cây gỗ và đối tượng Cảnh sử dụng cây lau nhà tấn công lại ông N và ông L: Xét thấy đây là hành vi mang tính chất phòng vệ, ông N và ông L không bị thương tích nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét xử lý là có căn cứ.

Hội đồng xét xử chấp nhận các nội dung nhận định nêu trên được ghi nhận tại phần Kết luận của bản Cáo trạng.

[5] Vật chứng của vụ án:

- Đối với 03 chiếc xe mô tô và 02 chiếc điện thoại thu giữ từ ông ĐVL, ông NVN, ông TB2, ông NVL2: ngày 23/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định xử lý vật chứng số 36/CSHS giao trả các tài sản này cho chủ sở hữu hợp pháp (BL 8) và thực hiện việc giao trả theo các Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 23/8/2019, 26/8/2019, 27/8/2019 tại Công an huyện Nhà Bè (BL 405, 407, 408, 409, 406).

- 01 cây kéo, 01 áo vải dài tay, 01 bình chữa cháy, 01 cây lau nhà: hiện không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia (thu giữ từ Phùng Trung K): Bị cáo cho biết đã dùng điện thoại này liên lạc với ông PĐA khi vụ án xảy ra nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[6] Các lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 4 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Tuyên bố bị cáo Phùng Trung K phạm “Tội Cố ý gây thương tích”;

Xử phạt: Phùng Trung K: 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2019.

 Buộc bị cáo Phùng Trung K có nghĩa vụ bồi thường cho ông Nguyễn Lưu Anh T số tiền 111.169.000 (một trăm mười một triệu một trăm sáu mươi chín nghìn) đồng.

 Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu đen, dài khoảng 24cm (phần tay cầm được bọc một lớp nhựa màu đen, mũi nhọn); mã số: KEO/415BB/2020;

- 01 (một) cái áo vải dài tay màu xanh rêu, cổ áo ghi chữ MAY MT; mã số: AO/415BB/2020;

- 02 (hai) cái có mã số: LT/415BB/2020, gồm:

+ 01 (một) cái bình chữa cháy màu đỏ;

+ 01 (một) cây lau nhà;

 Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) cái điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh xám (thu giữ của Phùng Trung K); mã số: DT/415BB/2020;

(Tang vật vụ án theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/415 ngày 20/8/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh – BL 502) Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong, nếu bị cáo chưa thanh toán đủ số tiền buộc nộp nêu trên, thì căn cứ vào Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.558.450 (năm triệu năm trăm năm mươi tám nghìn bốn trăm năm mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 534/2020/HS-ST

Số hiệu:534/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về