Bản án về tội cố ý gây thương tích số 53/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ P, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 24/2020/TLST–HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST–HS ngày 09 tháng 3 năm 2020, Thông báo về việc hoãn phiên tòa số 01/TB-TA ngày 16 tháng 3 năm 2020, Thông báo mở phiên tòa số 02/TB-TA ngày 20 tháng 4 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2020/HSST–QĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N - Sinh năm 1989 tại tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Ấp P, xã T, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn O (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1956; chung sống như vợ chồng với chị Nguyễn Ngọc Tường V, sinh năm 1997 và có 01 con (sinh năm 2019).

Tiền án:

- Ngày 07-02-2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 07 năm tù về tội “cướp tài sản” và “tội cướp giật tài sản” theo Bản án số 57/2007/HSST.

- Ngày 01-3-2012 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo Bản án số 12/2012/HSST.

- Ngày 18-9-2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 18 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 12/2012/HSST ngày 01-3-2012 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 48 tháng tù theo Bản án số 64/2012/HSST.

- Ngày 19-01-2016 bị Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xử phạt 36 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo Bản án số 08/2016/HSST.

Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13-8-2019 (có mặt tại phiên tòa) Người bào chữa: Ông Nguyễn Thái H – Luật sư thuộc Công ty luật TNHH hai thành viên Long Khánh (có mặt).

Bị hại: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 2001 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Minh D, sinh năm 1986 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã T, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu

- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Ông Hoàng Xuân S, sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 03-6-2018, Nguyễn Văn N đi cùng Lê Văn T1 đến quán “Hai lúa” ở khu phố T, phường HD, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để ăn thôi nôi con của bạn Th Sau đó, T1 cùng N, T2, N2, Y, C và 03 người bạn khác (chưa rõ nhân thân, lý lịch) rủ nhau đến quán karaoke “Thuyền và Biển” ở khu phố T, phường HD, thị xã PM để hát karaoke. Khi vừa vào quán thì giữa T1 và T2 xảy ra mâu thuẫn, một số người bạn đi cùng T2 xông đến đánh T1, N. T1 và N chạy ra khỏi quán, T1 lấy điện thoại gọi cho Trần Thanh T3 thông báo bị đánh ở quán karaoke và gọi T3 lên đón N lấy xe máy điều khiển chở T1 đến nhà Nguyễn Tuấn T4 ở ấp P, xã TH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Tại đây, T1, N gặp T4, T3 và P1. T1 kể chuyện bị đánh ở quán karaoke “Thuyền và Biển” và nhờ đi đánh nhóm đã đánh T1 trả thù, cả bọn đồng ý. P1 lấy xe máy chở T4 đi mua nước. T1, N, T3 đi xe taxi quay lại phường HD. Khi P1 và T4 quay lại không thấy nhóm T1 nên gọi điện thoại rủ T5 cầm hung khí đến phường HD đánh nhau giúp T, T5 đồng ý và rủ thêm M (chưa rõ nhân thân, lý lịch) đi giúp T1 đánh người. T5 cầm theo một cây đao cán dài khoảng 20cm, lưỡi đao dài khoảng 60cm đến khu vực đường mới thuộc ấp P, xã TH gặp P1, T4. Một lát sau, M đi cùng 03 người bạn của M (không rõ nhân thân, lý lịch) cầm theo 01 hộp giấy, trong hộp có các loại hung khí gồm đao, kiếm, giáo… Sau đó, nhóm của P1 chở số hung khí trên bằng xe máy đi về hướng phường HD. Khi tới vòng xoay HD, nhóm của P1 gặp chiếc taxi chở nhóm của T1. Nhóm của P1 bỏ toàn bộ số hung khí vào trong xe taxi của nhóm T1 và cùng nhau đến quán karaoke Thuyền và Biển.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, cả nhóm tới quán Thuyền và Biển. P1 đứng bên ngoài quán, T4 cầm theo một khẩu súng bắn đạn bi dài khoảng 20cm, ngang khoảng 12cm đem theo từ trước đi vào quán dương súng lên hù dọa những người trong quán, T5 lấy một cây kiếm cán gỗ dài khoảng 20cm, ngang khoảng 12cm chạy vào quán thì thấy anh T là con trai chủ quán Thuyền và Biển đang đứng trước khu vực cửa quán, T5 đã lao đến dùng tay phải chém một nhát trúng vào vùng vai phải của anh T, gây thương tích cho anh T. T1 lấy một cây kiếm dài khoảng 50cm, T3 lấy một cây giáo tự chế dài khoảng 80cm, N lấy cây kiếm tự chế màu trắng, cán hình trụ cài khoảng 20cm, lưỡi kiếm bằng inox, dẹt dài khoảng 60cm chạy vào quán tìm nhóm của T2 nhưng không gặp nên quay về thành phố BR.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 189/TgT ngày 06/7/2018 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận đối với thương tích của anh Nguyễn Đức T:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: 01 vết thương sau vai phải, gãy mỏm cùng vai, đã phẫu thuật mổ kết hợp xương gãy, hiện còn dụng cụ kết hợp xương, vận động vai hạn chế ít do đau 2. Về vật gây thương tích, cơ chế hình thành vết thương: Thương tích trên phù hợp với tổn thương cơ bản là “vết chém hay băm bổ”, được gây ra do sự tác động của vật có diện rộng hoặc có trọng lượng lớn tác động với lực mạnh vào cơ thể như dao rựa, dao phay, búa, rìu; tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước.

3. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 14%.

Tại Bản án số 172/2018/HS-ST ngày 28-11-2018 của Tòa án nhân dân thị xã P đã tuyên phạt Lê Văn T1 03 năm 06 tháng tù, Khưu Hồ Gia T5 03 năm tù, Nguyễn Tuấn T4 03 năm tù, Phan Nguyễn Hoàng P1 03 năm tù, Trần Thanh T3 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” Về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng đã giải quyết xong.

Đối với Nguyễn Văn N sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã trốn tránh, không chấp hành giấy mời làm việc của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã ra Thông báo truy tìm số 2304/TB-CQCSĐT-CSHS ngày 01-09-2018 đối với N.

Đến chiều 13-8-2019, N đến nhà Hoàng Bá T6 tại tổ 1, ấp P, xã TH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhậu chung với T6, T7, H1, P2 và một số người khác (không rõ nhân thân, lai lịch) là bạn của T6 và T7 Đến khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, N nhìn thấy có nhiều người, trong đó có người mặc đồng phục công an, dân quân và một số người mặc đồ thường đi vào nhà của T6. N biết lực lượng công an đến bắt để điều tra về hành vi cố ý gây thương tích tại quán karaoke Thuyền và Biển nên N đứng dậy chạy ra phía sau nhà T6 để bỏ trốn. Khi N leo hàng rào ra đường thì nhìn thấy lực lượng công an chờ sẵn xông đến. Trong lúc bị lực lượng công an khống chế, N dùng tay phải lấy 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen, dài 25cm, lưỡi dài 12cm, cán dài 13cm có sẵn trong túi quần bên phải, bấm mở dao, quơ qua lại để đe dọa lực lượng công an nhằm chạy trốn thì bị ông Nguyễn Minh D là Công an viên xã TH khống chế đè xuống đất, N chuyển dao từ tay phải sang tay trái đâm từ dưới lên trúng vào vùng bụng trái gây thương tích cho ông D.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 233/TgT ngày 03/09/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại đối với ông Nguyễn Minh D là 01%. Ông D đã làm đơn không yêu cầu khởi tố xử lý về hình sự đối với N về hành vi cố ý gây thương tích và không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Về vật chứng trong vụ án: 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen, dài 25cm, lưỡi dài 12cm, cán dài 13cm; 01 áo đồng phục Công an trên vạt áo phía trước bên trái có 01 vết rách dài 1,8cm đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P bảo quản, chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 12-02-2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Văn N về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ, đ khoản 2 Điều 134 và tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

ại phi n t a Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Chống người thi hành công vụ”; đề nghị áp dụng d, đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo N từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 330, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; đề nghị áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của hai tội Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen, dài 25cm, lưỡi dài 12cm, cán dài 13cm; 01 áo đồng phục Công an trên vạt áo phía trước bên trái có 01 vết rách dài 1,8cm do không còn giá trị sử dụng Bị cáo N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng và xin giảm nhẹ hình phạt Người bào chữa cho bị cáo N trình bày Về tội cố ý gây thương tích Đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P về tội danh và khung hình phạt Tuy nhiên, xét về vai trò của bị cáo trong vụ án chỉ là đồng phạm giúp sức Việc Khưu Hồ Gia T5 gây thương tích cho anh T nằm ngoài mong muốn và vượt quá sự kiểm soát của T1, Nam và các bị cáo khác Vì vậy, theo quy định tại khoản 4 Điều 17 Bộ luật Hình sự, N không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành (T5) Trong quá trình khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại thì gia đình N đã tự nguyện bồi thường 25 000 000 đồng trong tổng số 60 000 000 đồng mà các bị cáo bồi thường cho anh T thông qua ông Hoàng Xuân S Đề nghị Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt xem xét áp dụng thêm tình tiết người bị hại có đề nghị không khởi tố (không xử lý hình sự) đối với bị cáo; bị cáo có con nhỏ cần phải nuôi dưỡng, chăm sóc theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù về tội cố ý gây thương tích Đối với tội chống người thi hành công vụ Bị cáo N bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (PC02) bắt tại nhà Hoàng Bá T6 lúc 17 giờ 15 phút ngày 13-8-2019 là không đúng quy định, vi phạm nghiêm trọng quy định về việc bắt người Khi bắt người không có phê chuẩn của Viện kiểm sát mà căn cứ vào Thông báo truy tìm số 2304/TB-QDTT-CSHS ngày 01-9-2018 của Công an thị xã P và kế hoạch triệu tập số 1891/KH-PC02-D2 ngày 13-8-2019 của Phòng PC02 Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Trong kế hoạch triệu tập số 1891/KH-PC02-D2 ngày 13-8- 2019 có nội dung “phải trao đổi thông tin với CQĐT Công an thị xã P về việc phát hiện đối tượng Nguyễn Văn N…” Cùng ngày 13-8-2019 Cơ quan điều tra Công an thị xã P ban hành Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt tạm giam đối với Nguyễn Văn N nhưng cơ quan Công an không thi hành theo lệnh bắt của Công an thị xã P mà lại bắt theo thông báo truy tìm Bị cáo N bị lực lượng nhiều thành phần bắt giữ nhưng không tuân theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Tại thời điểm bị bắt N không được nghe đọc lệnh bắt, không được giao lệnh bắt và không được giải thích các quyền và nghĩa vụ của mình; lực lượng Công an khi vây bắt N không hô khẩu lệnh hay yêu cầu gì; tại thời điểm bị bắt giữ, N bị nhiều người dùng cây tầm vông, cây dũ, dùng chân, tay đánh đập vào chân và mạn sườn hai bên, xịt hơi cay vào mặt Các tài liệu như Biên bản thực hiện kế hoạch triệu tập, các bản báo cáo của cán bộ thuộc Phòng PC02, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không khách quan, có dấu hiệu được tạo lập sau thời điểm bắt người để củng cố hồ sơ như:

Thực hiện kế hoạch triệu tập nhưng hồ sơ thể hiện không có giấy triệu tập bị cáo N, việc triệu tập không thực hiện theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự mà lại thực hiện như đang thi hành lệnh bắt người; Bản kế hoạch số 1891 xác nhận phát hiện N có mặt ở nhà T6 lúc 14 giờ 30 phút nhưng tại biên bản ghi lời khai của Lê Minh T7 (bút lục 142) khai được T6 mời đến nhà nhậu khoảng 15 giờ, sau khi T7 đến nhà T6 khoảng 30 phút thì N mới đến Như vậy, các cán bộ Phòng PC02 tại sao lại phát hiện được N ở nhà T6 lúc 14 giờ 30 phút; Thời điểm ông Nguyễn Huy H2 – Cán bộ Phòng PC02 có mặt tại Công an xã TH để họp triển khai Kế hoạch 1891 là lúc 15 giờ 30 phút nhưng trong báo cáo của các Công an viên xã TH thì 17 giờ các cán bộ của Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mới xuống xã Như vậy, không thể có cuộc họp triển khai kế hoạch triệu tập tại xã TH lúc 15 giờ 30 phút được; Biên bản vụ việc được lập lúc 17 giờ 30 phút ngày 13-8-2019 xác nhận bắt N lúc 17 giờ 15 phút cùng ngày, tuy nhiên Biên bản về việc triệu tập người có thông báo truy tìm lại khẳng định việc “đọc thông báo truy tìm, … bắt đối tượng…” vào lúc 17 giờ Biên bản về việc triệu tập người có thông báo truy tìm được lập trước khi thực hiện việc bắt (triệu tập) Việc cơ quan Công an thực hiện vây bắt Nguyễn Văn N vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 13-8-2019 là không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Do đó, hành vi của Nguyễn Văn N không cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 330 Bộ luật Hình sự Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố N không phạm tội chống người thi hành công vụ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Về tố tụng Qua xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử thấy rằng trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát đã tuân thủ nghiêm thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ theo quy định tại các điều 88, 98, 105 Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra không có bức cung, nhục hình Tại phiên tòa người bào chữa cho rằng việc cơ quan Công an thực hiện vây bắt Nguyễn Văn N vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 13-8-2019 là không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 330 Bộ luật Hình sự Hội đồng xét xử nhận thấy:

Theo Thông báo truy tìm số 2304/TB-QDTT-CSHS ngày 01-9-2018 của Công an thị xã P, Nguyễn Văn N là đối tượng nghi vấn có liên quan đến vụ án “Cố ý gây thương tích” xảy ra ngày 03-6-2018 tại quán Karaoke Thuyền và Biển thuộc phường H, thị xã P Ngày 13-8-2019, qua công tác trinh sát, theo dõi Phòng Cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (PC02) phát hiện được N đang có mặt tại nhà Hoàng Bá T6 thuộc ấp P, xã TH, thành phố BR nên đã kết hợp với Công an thành phố BR, Công an xã TH tiến hành triệu tập N giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P để phục vụ điều tra Sau khi khống chế được N đưa về Công an xã TH làm việc, N đã thừa nhận hành vi cùng đồng bọn tham gia đánh nhau tại quán karaoke Thuyền và Biển thuộc phường HD, thị xã PM ngày 03-6-2018 và đang bỏ trốn (bút lục 184- 187) Sau khi Phòng PC 02, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bàn giao N cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P (bút lục 14), N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình cùng đồng bọn tại quán karaoke Thuyền và Biển (bút lục 164-167) Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã ra Quyết định khởi tố bị can số 219/QĐ – CQCSĐT-CSHS và Lệnh bắt bị can để tạm giam số 56/LBTG-CQCSĐT-CSHS cùng ngày 13-8-2019 và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thị xã P phê chuẩn theo Đề nghị số 295/ĐN – CQCSĐT- CSHS ngày 13-8-2019 (bút lục 12-13) Sau khi có Quyết định phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can và Quyết định phê chuẩn Lệnh bắt bị can để tạm giam cùng ngày 13-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P mới tiến hành lệnh bắt bị can để tạm giam (bút lục 15) Như vậy, Phòng PC 02 – Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết hợp với Công an thành phố BR, Công an xã TH tiến hành triệu tập đối tượng nghi vấn – Nguyễn Văn N theo Thông báo truy tìm số 2304/TB-QDTT-CSHS ngày 01-9- 2018 của Công an thị xã P, không phải thực hiện các thủ tục bắt bị can để tạm giam theo quy định tại Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự hay triệu tập bị can làm việc theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự Do trong quá trình tiến hành triệu tập, đối tượng có hành vi chạy trốn và chống trả quyết liệt nên lực lượng Công an phải khống chế để bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P phục vụ việc điều tra Đối với biên bản họp triển khai kế hoạch, các bản tường trình vụ việc của các cán bộ Công an Phòng PC 02 – Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Công an viên xã TH, biên bản vụ việc, biên bản về việc triệu tập người có thông báo truy tìm lập cùng ngày 13-8-2019 có sự chênh lệch về thời gian lập biên bản Tuy nhiên, các sai sót này không phải là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng Đề nghị Phòng cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu rút kinh nghiệm Lời khai của anh Lê Minh T7 ngày 13-8-2019 (bút lục 142) xác định “Khoảng 15 giờ ngày 13-8-2019” không chính xác tuyệt đối về mặt thời gian nên không thể căn cứ theo lời khai này để khẳng định N không có mặt tại nhà T6 lúc 14 giờ 30 phút ngày 13-8-2019 [2] Về nội dung vụ án và tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, qua đối chiếu với lời khai tại cơ quan điều tra, Bản kết luận giám định pháp y về thương tích, bản ảnh hiện trường và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy phù hợp với nhau, do vậy đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 15 giờ ngày 03-6-2018 tại quán karaoke “Thuyền và Biển” thuộc khu phố T, phường HD, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Lê Văn T1, Nguyễn Văn N, Khưu Hồ Gia T5, Trần Thanh T3, Nguyễn Tuấn T4, Phan Nguyễn Hoàng P1 đã mang theo đao, kiếm tự chế để tìm nhóm thanh niên có mâu thuẫn với T1 trước đó nhằm mục đích đánh trả thù nhưng không gặp. Tại quán, Nguyễn Tuấn T4 dùng khẩu súng bắn đạn bi để đe dọa những người có mặt, Khưu Hồ Gia T5 dùng 01 thanh kiếm tự chế, cán dài khoảng 20cm, lưỡi dài khoảng 60cm chém vào sau vai phải, gãy mỏm cùng vai của anh Nguyễn Đức T. Hậu quả anh T bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 14%.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, thống nhất với nhau từ trước. Bị cáo N tham gia vụ án với vai trò giúp sức, tuy bị cáo không trực tiếp gây thương tích cho anh T nhưng hành vi bị cáo dùng hung khí nguy hiểm xông vào quán karaoke Thuyền và Biển có ý nghĩa củng cố về mặt tinh thần cho Khưu Hồ Gia T5 trực tiếp gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 14%. Ngoài ra, bị cáo có 04 tiền án, lần phạm tội trước thuộc trường hợp tái phạm nhưng chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, hành vi của bị cáo N đủ dấu hiệu cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Sau khi cùng đồng bọn thực hiện hành vi cố ý gây thương tích, bị cáo đã bỏ trốn. Đến khoảng 17 giờ 15 phút ngày 13-8-2019 tại ấp P, xã TH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, khi bị lực lượng Công an triệu tập làm việc, bị cáo đã không chấp hành và chạy trốn. Trong khi lực lượng Công an truy đuổi, khống chế thì bị cáo đã sử dụng 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen, dài 25cm, lưỡi dài 12cm, cán dài 13cm đâm vào vùng bụng ông Nguyễn Minh D là Công an viên xã TH, thành phố BR nhằm cản trở việc triệu tập bị cáo của lực lượng công an. Hậu quả ông D bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.

Đối với hành vi chống người thi hành công vụ: Như đã phân tích tại mục [1], việc Phòng Cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết hợp với Công an thành phố BR, Công an xã TH tiến hành triệu tập đối tượng nghi vấn – Nguyễn Văn N theo Thông báo truy tìm số 2304/TB-QDTT-CSHS ngày 01-9- 2018 của Công an thị xã P, không phải thực hiện các thủ tục bắt bị can để tạm giam theo quy định tại Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự hay triệu tập bị can làm việc theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự Tại thời điểm này, N biết bản thân đang bị Cơ quan điều tra Công an thị xã P truy tìm vì có liên quan đến vụ án cố ý gây thương tích tại quán karaoke Thuyền và Biển Vì vậy, khi nhìn thấy lực lượng Công an đang đi vào cổng nhà Nguyễn Bá T6, bị cáo đã bỏ chạy Khi bị lực lượng công an khống chế bị cáo đã chống trả quyết liệt Vì vậy, hành vi dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ của bị cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” Do lần phạm tội trước của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nhưng chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 330 Bộ luật Hình sự Đối với hành vi cố ý gây thương tích cho ông D – Công an viên xã TH: Ngày 18-9-2019 ông D đã có đơn bãi nại và không yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối Nguyễn Văn N về hành vi cố ý gây thương tích và không yêu cầu N bồi thường dân sự. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố BR không khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với hành vi cố ý gây thương tích cho ông D là đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội Hành vi cùng đồng bọn gây thương tích cho anh T vào ngày 03-6-2018 đã trực tiếp gây tổn hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo vệ, ngoài ra còn tác động xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương. Sau khi gây án, bị cáo đã bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P Đến ngày 13-8-2019, sau hơn một năm bỏ trốn, bị cáo về nhà bạn tại ấp PT, xã TH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ăn nhậu. Khi biết lực lượng Công an đến triệu tập về làm việc bị cáo đã bỏ trốn. Trong quá trình bị truy đuổi, bị cáo đã có hành vi chống trả quyết liệt lực lượng công an, dùng dao đe dọa lực lượng công an và sau đó gây thương tích cho ông D – Công an viên xã TH.

Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, bị cáo có 04 tiền án về các tội xâm phạm sở hữu nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc mới tương xứng với các hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải Qua đối chất tại phiên tòa giữa bị cáo và ông Hoàng Xuân S, ông Nguyễn Văn P nhận thấy bị cáo có đóng góp một phần trong tổng số tiền 60 000 000 đồng bồi thường cho anh T Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm các tình tiết người bị hại có đề nghị không khởi tố (không xử lý hình sự) đối với bị cáo; bị cáo có con nhỏ cần phải nuôi dưỡng, chăm sóc theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy ông Nguyễn Minh D là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không phải là bị hại trong vụ án, ông D có đơn đơn bãi nại và không yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối N về hành vi cố ý gây thương tích Con bị cáo hiện do chị Nguyễn Ngọc Tường V chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, không có căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Anh Nguyễn Đức T không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết Ông Nguyễn Minh D không yêu cầu bị cáo N phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết [7] Về vật chứng Cần tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen, dài 25cm, lưỡi dài 12cm, cán dài 13cm và 01 áo đồng phục Công an viên, trên vạt áo phía trước bên trái có 01 vết rách dài 1,8cm do không còn giá trị sử dụng.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1 Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Cố ý gây thương tích”, xử phạt bị cáo N 03 (ba) năm tù 2. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 330, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Chống người thi hành công vụ”, xử phạt bị cáo N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt bị cáo Nguyễn Văn N phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2019.

3 Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao bấm bằng kim loại màu đen, dài 25cm, lưỡi dài 12cm, cán dài 13cm và 01 (một) áo đồng phục Công an xã, trên vạt áo phía trước bên trái có 01 vết rách dài 1,8cm, áo đã cũ Các vật chứng nêu trên hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 46/BB-CCTHADS ngày 13-02-2020 5 Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200 000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm 6 Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 53/2020/HS-ST

Số hiệu:53/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về