Bản án về tội cố ý gây thương tích số 488/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 488/2020/HS-PT NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 404/2020/TLPT-HS ngày 22/10/2020 đối với bị cáo Đặng Thành C và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 93/2020/HS-ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Đặng Thành C, sinh năm 1995 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Tổ A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Đặng Thành H – sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Ch – sinh năm 1962; có vợ Trần Thị Kim A – sinh năm 2000 và 02 con sinh đôi cùng ngày 06/01/2020; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được khởi tố tại ngoại.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đinh Ngọc Qu, sinh năm 1999 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Tổ A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Đinh Trùng D – sinh năm 1967 và bà Đỗ Thị Nh– sinh năm 1969; bị cáo chưa vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được khởi tố tại ngoại.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Hồng Th, sinh năm 1991 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Tổ E, ấp F, xã G, huyện D, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc B – sinh năm 1954 và bà Vũ Thị Th – sinh năm 1956; bị cáo chưa vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được khởi tố tại ngoại.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Trần Trung T – sinh năm 1997 Trú tại: Ấp H, xã I, huyện K, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Hoàng Thị Mai Tr, sinh năm 1995 Trú tại: Tổ L, ấp M, xã C, huyện D, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

2. Ông Đặng Thành H, sinh năm 1964; Trú tại: Tổ L, ấp H, xã I, huyện K, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Thành C, Nguyễn Hồng Th và Đinh Ngọc Qu là bạn bè quen biết nhau. Khoảng 23 giờ ngày 27/11/2019, anh Trần Trung T điều khiển xe mô tô biển số 60B7 – xxx.yy chở chị Hoàng Thị Mai Tr đến bến phà 107 thuộc ấp A, xã B (trước nhà bị cáo Đặng Thành C) để đón xe đi thành phố tìm việc làm. Trong lúc đứng đón xe thì anh T và chị Tr nói chuyện lớn tiếng làm chó sủa. Nghe tiếng ồn ào nên C thức dậy và đi ra mở cửa và nói “Đêm khuya rồi nói chuyện gì to tiếng vậy, để người ta ngủ mai còn đi làm” thì chị Tr trả lời “Giờ đi nè, làm gì dữ vậy” nên C nhận ra chị Tr. Khi anh T điều khiển xe mô tô rồ ga lớn và chở chị Tr đi thì C cho rằng anh T rồ ga xe mô tô là để chọc tức mình nên C cầm ổ khóa ném về phía anh T nhưng trúng vào chân chị Trgây xây xát nhẹ. C tiếp tục gọi điện thoại cho Nguyễn Hồng Th và Đinh Ngọc Qu đi đánh anh T; Th và Qu đồng ý. Khi đi, C điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) mang theo 01 con dao kim loại dài khoảng 30cm; Th mang theo 01 con dao kim loại dài khoảng 60cm; Qu mang theo 01 con dao kim loại dài khoảng 50cm; C điều khiển xe mô tô chở Th và Qu đến nhà chị Tr để tìm đánh anh T.

Khi thấy C, Th, Qu đến thì chị Tr can ngăn C lại. Qu cầm dao chém 02 nhát vào khuỷu tay trái anh T gây thương tích rồi cả nhóm ra về. Trên đường về, Qu đưa dao có dính mau cho C để ném xuống sông Đồng Nai; C và Th mang dao về nhà cất giấu. Anh T được đưa đi cấp cứu, đến ngày 23/12/2019, anh T làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án.

Căn cứ bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0018/TgT/2020 ngày 08/01/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận anh Trần Trung T bị thương tích như sau: Tổn thương lõi cầu ngoài đầu dưới xương cánh tay trái, đã phẫu thuật hiện để lại cứng khớp khuỷu ở tư thế gấp 900; tỉ lệ: 26%. Sẹo khuỷu trái kích thước 15x0,4cm; tỉ lệ: 02%.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là: 28%.

Kết luận khác: Vật gây thương tích: Vật sắc (Bút lục số 32, 33).

Căn cứ bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 0019/GĐHS/2020 ngày 15/01/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận về cơ chế hình thành vết thương của anh Trần Trung T như sau: Vết thương mặt sau khuỷu trái để lại sẹo kích thước 15x0,4cm, đứt gân cơ tam đầu + cơ khuỷu, bên dưới tổn thương gãy mõm trên lõi cầu xương cánh tay trái. Tổn thương này do vật sắc tác động lực mạnh vào vị trí mặt ngoài khuỷu tay trái, theo hướng gần vuông góc với trục xương cánh tay, từ trái qua phải và từ ngoài vào trong gây ra (Bút lục số 36).

Tại bản án số 93/2020/HSST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán đã quyết định:

1/ Về điều luật áp dụng:

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ các Điều 584, 585, 587, 590 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Đặng Thành C, Đinh Ngọc Qu, Nguyễn Hồng Th phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt mỗi bị cáo Đặng Thành C, Đinh Ngọc Qu 03 (ba) năm tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Th 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù của các bị cáo được tính từ ngày chấp hành hình phạt.

4/ Về biện pháp tư pháp:

- Buộc mỗi bị cáo Đinh Ngọc Qu, Nguyễn Hồng Th bồi thường cho anh Trần Trung T số tiền 45.142.600đ.

- Buộc bị cáo Đặng Thành C bồi thường cho anh Trần Trung T số tiền 35.142.600đ.

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài khoảng 60cm (Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2020).

5/ Về án phí hình sự: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ.

Án phí dân sự có giá ngạch: Bị cáo C phải chịu 1.757.000đ; mỗi bị cáo Qu, Th chịu 2.257.000đ.

Ngoài ra bản án còn quyết định về nghĩa vụ thi hành án và án phí.

Ngày 03/10/2020, bị cáo Đặng Thành C, Đinh Ngọc Qu và Nguyễn Hồng Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa:

Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Tòa án sơ thẩm đã căn cứ Điểm đ Khoản 2 Điều 134, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 5, Điều 58 Bộ luật hình sự tuyên bố các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” xử phạt bị cáo C, Qu 03 năm tù, bị cáo Th 02 năm từ là đúng quy định. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: kháng cáo, kháng nghị làm đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tòa án sơ thẩm đã xác định hành vi phạm tội, tội danh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đúng theo qui định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu.

[4] Xét việc xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo không có căn cứ chấp nhận bởi lẽ: Các Bị cáo không quen biết với người bị hại, chỉ vì một lời nói không vừa lòng mà bị cáo C đã rủ rê các bị cáo khác cùng cầm hung khí nguy hiểm truy sát người bị hại, thể hiện bản chất côn đồ, hung hãn. Việc phân hóa vai trò và đánh giá tính chất, mức độ trong hành vi phạm tội của từng bị cáo của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với qui định của pháp luật; Bị cáo C là người khởi xướng, bị cáo Qu là người thực hành và bị cáo Th là đồng phạm tích cực tham gia gây thương tích cho người bị hại. Tình hình an ninh trật tự tại địa phương hiện nay phức tạp, tội phạm có tính côn đồ, hung hãn từ những lý do nhỏ nhặt gây ảnh hưởng xấu cho xã hội nên cần trừng trị các bị cáo để răn đe, phòng ngừa chung. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355, Điểm a Khoản 1 Điều 361 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đặng Thành C, Đinh Ngọc Qu và Nguyễn Hồng Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 93/2020/HSST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ.

2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 587, 590 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Đặng Thành C, Đinh Ngọc Qu, Nguyễn Hồng Th phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt mỗi bị cáo Đặng Thành C, Đinh Ngọc Qu 03 (ba) năm tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Th 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù của các bị cáo được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

3. Các bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 488/2020/HS-PT

Số hiệu:488/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về