Bản án về tội cố ý gây thương tích số 45/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 01/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn D, sinh năm 1969 tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Khu phố M, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị H1 (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Minh L, có 1 con sinh năm 2000, tiền sự, tiền án: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Võ Giang H2 (Ốc Bưu), sinh năm 1987 tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: ấp Đ, xã L1, huyện L2, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: vá vỏ xe; trình độ học vấn 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Đ2 (chết) và bà Nguyễn Thị Đ1; chưa vợ con, tiền sự: không; tiền án: Ngày 27/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, đến ngày 12/11/2019 chấp hành xong bản án; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

- Bị hại: Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1972 (có mặt) Địa chỉ: Thôn 8, xã H3, huyện K, tỉnh Ninh Bình Tạm trú: Khu phố M, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 12/12/2019, ông Hoàng Văn T, sinh năm 1972 đi xe mô tô biển số 35B1-18625 đến nhà Nguyễn Văn D, cùng địa chỉ tại khu phố M, thị trấn H, huyện N để đòi tiền nợ từ năm 2017, với số tiền là 4.500.000đ bán tủ thờ thiếu cho ông D. Khi đến nơi thì ông T và D lời qua tiếng lại, ông T có dùng tay đánh vào mặt D làm chảy máu mũi. D liền lấy miếng gạch ống làm xà bần trên sân chọi vào người ông T. Thấy vậy, Võ Giang H2, là cháu ruột của D dùng tay đẩy ông T ra ngoài sân và dùng tay đánh nhiều cái vào ngực, bụng của ông T. Ông T cũng dùng tay đánh vào mặt H2 02 đến - 03 cái, D cũng dùng tay đánh vào lưng ông T. Sau khi sự việc xảy ra thì T và D đều bị thương và được người nhà đưa đi cấp cứu và trình báo sự việc đến công an thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai đến lập hồ sơ ban đầu và chuyển giao đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N thụ lý xác minh theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra bị can Nguyễn Văn D đã khai nhận dùng miếng gạch ống làm xà bần trên sân chọi trúng vào người bị hại Hoàng Văn T, ông T cũng thừa nhận điều này.

Tại Bản giám định pháp y số: 0057/TgT/2020 ngày 11/02/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận ông Hoàng Văn T có thương tích như sau: Gãy mỏm ngang đốt sống L5, tỷ lệ 05%, Tổn thương màng phổi trái đã điều trị nội khoa, không để lại di chứng, tỷ lệ 05%, Gãy xương sườn số 7 bên trái, can xấu, tỷ lệ 2,5%, Gãy xương sườn số 8 bên trái, can xấu, tỷ lệ 2,5%, Gãy xương sườn số 9 bên trái, can xấu, tỷ lệ 2,5%, Sẹo gần mắt cá trong chân trái kích thước 02x0,8cm, tỷ lệ 02%, Sẹo gốc ngón I chân trái kích thước 0,9x0,4cm, tỷ lệ 01%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể (Áp dụng theo phương pháp cộng lùi) do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 19%. Vật gây thương tích là vật tày.

Tại Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số: 0718/TGT/2020 ngày 27/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận như sau:

Chấn thương ngực gãy xương sườn 7,8,9 bên trái, tổn thương tràn khí – tràn dịch màng phổi trái và dải phổi xẹp thùy dưới phổi. Tổn thương này do vật tày cứng (vật tày bằng) hoặc vật tày mền tác động lực mạnh vào ngực trái gây ra.

Vết thương để lại sẹo gần mắt cá trong chân trái kích thước 02 x 0,8cm. Tổn thương này do vật tày cứng có bề mặt nham nhở tác động lực nhẹ vào vùng gần mắt cá trong chân trái gây ra.

Vết thương để lại sẹo gốc ngón I chân trái kích thước 0,9 x 0,4cm. Tổn thương này do vật tày cứng có bề mặt nham nhở tác động lực nhẹ vào vùng gốc ngón I chân trái gây ra.

Chấn thương gãy mỏn ngang L1 bên phải. Tổn thương này do vật tày cứng hoặc vật tày mền tác động lực mạnh vào vùng hôn lưng phải ngang mức L1 gây ra.

Cơ chế gây ra thương tích tổn thương tràn khí– tràn dịch màng phổi trái và dải phổi xẹp thùy dưới phổi của bị hại Hoàng Văn T là do chấn thương gãy xương sườn và các đầu xương gãy chọc vào màng phổi gây ra.

Do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không thu giũ được các cục gạch xà bần nên Trung tâm Pháp y không thể xác định cụ thể hình dạng, kích thước, trọng lượng….của hung khí vì vậy Trung tâm pháp y không thể khẳng định các cục gạch xà bần có thể gây tổn thương cho nạn nhân Hoàng Văn T hay không.

Tay người được xác định là vật tày mềm khi không đeo các trang sức.

Tình tiết tăng nặng: Bị can Võ Giang H2 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tình tiết giảm nhẹ:

Bị can Nguyễn Văn D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; có nhân thân tốt.

Bị can Võ Giang H2 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại Tang vật vụ án: Những miếng gạch ống làm xà bần (không thu hồi được).

Về trách nhiệm dân sự: Bị can Võ Giang H2 và Nguyễn Văn D đã bồi thường khắc phục hậu quả theo thỏa thuận cho bị hại Hoàng Văn T số tiền 20.000.000đồng.

Tại bản cáo trạng số: 136/CT.VKS ngày 20/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai truy tố bị can Nguyễn Văn D và Võ Giang H2 về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo D và H2 về tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; xử phạt Nguyễn Văn D từ 2 (hai) năm đến 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù; Võ Giang H2 từ 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù đến 3 (ba) năm tù.

Về các biện pháp tư pháp: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không xét.

- Lời nói sau cùng: Các bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Giai đoạn điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo D khai nhận: Vào khoảng 19 giờ 40 phút, ngày 12/12/2019, bị cáo đang ngồi uống rượu một mình tại nhà thuộc khu phố M, thị trấn H, huyện N thì ông T đến để đòi tiền nợ mà vợ bị cáo mua tủ thờ còn thiếu. Sau đó, giữa bị cáo và ông T lời qua tiếng lại, ông T mới dùng tay đánh vào mặt bị cáo làm chảy máu mũi. Bị cáo liền lấy miếng gạch ống làm xà bần trên sân chọi trúng vào người ông T. Ngay sau đó thì Võ Giang H2 là cháu kêu bằng cậu ruột chạy đến đẩy ông T ra ngoài sân và hai người đánh nhau.

Bị cáo H2 khai: Khi từ nhà sau đi lên thì thấy cậu D chảy máu ở mặt rất nhiều và gặp ông T đang đứng ở trước sân nghĩ là bị ông T đánh nên dùng tay đẩy ông T ra ngoài thì bị ông T dung tay đánh vào mặt, bị cáo mới dùng tay đánh lại nhiều cái vào ngực, bụng của ông gây thương tích. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Văn D và Võ Giang H2 phạm tội “cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Đây là vụ án có đồng phạm nhưng là giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ, không có bàn bạc phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, nên không xem là phạm tội có tổ chức.

[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo: Vì bị người bị hại đánh trước nên bị cáo D có hành vi lấy các miếng gạch ống làm xà bần trên sân chọi và dùng tay đánh lại bị hại. Bị cáo H2 do thấy cậu ruột mình bị đánh nên tức giận dùng tay đánh vào ngực và bụng bị hại nhiều cái gây thương tích. Tại Bản giám định pháp y số: 0057/TgT/2020 ngày 11/02/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận ông Hoàng Văn T bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 19%. Bị cáo H2 có 1 tiền án chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo dùng gạch để gây thương tích cho người khác thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm đối từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo đã bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có một phần lỗi là đánh bị cáo trước, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo D có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định.

Đối với bị hại T có hành vi dùng tay đánh hai bị cáo chỉ gây thương tích nhẹ, hai bị cáo đã từ chối giám định và không có yêu cầu xử lý hình sự và bồi thường nên cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý là đúng pháp luật.

[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo H2 là có căn cứ pháp luật. Nhưng đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo D là cao, chưa phù hợp với các tình tiết của vụ án.

[6] Về biện pháp tư pháp: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.0000đồng, tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326, 327 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D và Võ Giang H2 phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu … sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 1 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án phạt tù.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Võ Giang H2 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án phạt tù.

Bị cáo D và H2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 45/2021/HS-ST

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về