Bản án về tội cố ý gây thương tích số 40/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 40/2022/HS-PT NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm, thụ lý số 10/2022/TLPT-HS ngày 21 tháng 01 năm 2022, do có kháng cáo của bị hại Đặng Văn D đối với bản án hình sự sơ thẩm số 604/2021/HSST ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

* Bị cáo bị kháng cáo: Mai Ngọc Đ; tên gọi khác: Không; sinh ngày 22/02/1988; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 2, phường CH, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông: Mai Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị P; Có vợ là Nguyễn Thị H1 (đã ly hôn); có 01 con chung; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2006/HSST ngày 14/9/2006 Toà án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Mai Ngọc Đ 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 346/2014/HSST ngày 30/5/2014 Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

+ Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 105 ngày 15/6/2006 Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt 100.000đ về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

1 + Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 53 ngày 10/5/2012 của Công an thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 2.000.000đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”;

+ Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 65 ngày 27/9/2012 của Công an thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Đánh bạc”;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 đến nay. (có mặt)

Bị hại kháng cáo: Anh Đặng Văn D, sinh năm 1991. (có mặt) Địa chỉ: thôn BT, xã YC, huyện BM, tỉnh Hà Giang Trong vụ án này người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 15/5/2018, Mai Ngọc Đ đi đến quán bi a của gia đình ông Nguyễn Văn C, tại xóm SC, xã SC, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên để đánh Bi a. Khi vào quán, thấy có 02 bàn Bi a đã có người chơi, Đ đi đến khu vực bàn Bi a ở phía trong gần cửa nhà ông C, tại đó có anh Đặng Văn D, anh Nông Văn T, Phạm Thế H và Trương Văn B là sinh viên của trường Cao đẳng Than khoáng sản Việt Nam, phân hiệu đào tạo Việt Bắc đang chơi Bi a, Đ yêu cầu nhóm của anh D dừng chơi, nhưng anh D không đồng ý. Đ đi đến giằng 01 chiếc gậy Bi a của anh Đặng Văn N đang chơi ở bàn Bi a bên cạnh rồi đi đến vị trí của anh D đang ngồi ở ghế gần bàn Bi a, Đ cầm gậy bằng tay phải vụt 01 phát trúng vào đầu, 01 phát vào vùng mắt trái và 01 phát trúng vào cánh tay trái của anh D, làm gậy Bi a bị gãy, anh D ôm đầu gục xuống nền gạch. Khi được mọi người can ngăn, Đ vứt gậy Bi a ở hiện trường rồi bỏ đi. Anh D được mọi người đưa đến Bệnh viện A Thái Nguyên để cấp cứu, điều trị đến ngày 19/5/2018 chuyển đến Khoa ngoại - thần kinh Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên điều trị, đến ngày 22/5/2018 ra viện.

Hậu quả: Theo Bệnh án ngoại khoa số 12597 của Bệnh viện A Thái Nguyên xác định sưng nề vùng trán, đỉnh đầu bên trái, bầm tím hốc mắt; Vết thương sau rách phức tạp, sâu sát xương đang chảy máu trên trán; Hình ảnh chảy máu nhu mô não thùy trán trái, hình ảnh vỡ xương trán trái; Tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái; Hình ảnh tụ dịch các xoang; Mắt trái xuất huyết dưới kết mạc sau. Chẩn đoán “Chấn thương sọ não, xuất huyết võng mạc”.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 153/TgT ngày 23/5/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Nguyên kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với anh Đặng Văn D là 51%. Việc đánh giá tổn thương mắt xuất huyết võng mạc và vết thương vùng mặt có ảnh hưởng đến thẩm mỹ hay không, để sau khi liền sẹo bệnh nhân ra viện, cơ quan CSĐT có thể trưng cầu giám định bổ sung.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 300/TgT ngày 10/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mắt trái thị lực đếm ngón tay dưới 3m, tỉ lệ 41%; thương tích được xác định tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 153/TgT ngày 23/5/2018 là 51%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với anh Đặng Văn D là 71% áp dụng theo phương pháp cộng lùi.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Đ đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 27/5/2021 bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang bắt giữ.

Tại Cơ quan điều tra, Mai Ngọc Đ khai: khoảng 20 giờ 30 ngày 15/5/2018, Đ đến nhà anh C để đánh Bi a, đến nơi Đ thấy nhóm của D đang chơi Bi a, Đ yêu cầu nhóm của D ngừng chơi nhưng D không đồng ý, Đ bực tức nên đã đi về phía anh N đang chơi Bi a gần đó, giằng chiếc gậy Bi a anh N đang cầm trên tay, vụt 03 phát liên tiếp vào vùng đầu của anh D với mục đích làm anh D bị thương để giải tỏa tâm lý bức xúc của Đ.

Về trách nhiệm dân sự: anh Đặng Văn D yêu cầu Mai Ngọc Đ bồi thường số tiền 350.000.000 đồng, Đ đã tác động bà Nguyễn Thị P bồi thường 7.000.000 đồng và tại phiên toà bà P bồi thường thêm số tiền 9.800.000 đồng cho ông Đặng Văn T1 là bố của anh D, tổng là 16.800.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 604/2021/HS-ST ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố bị cáo Mai Ngọc Đ phạm tội: “Cố ý gây thương tích”;

1. Căn cứ điểm d khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Ngọc Đ 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/5/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 590 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Mai Ngọc Đ phải bồi thường thiệt hại sức khỏe cho anh Đặng Văn D tiền thuốc, viện phí, ngày công người trông nom, bồi thường tổn thất về tinh thần, tiền bồi dưỡng sức khoẻ sau ra viện, cụ thể như sau:

- Tiền viện phí, tiền thuốc theo hóa đơn tại Bệnh viện A Thái Nguyên, Bệnh viên Trung ương Thái Nguyên và Viện Mắt Trung ương: 7.004.500 đồng - Tiền công người trông nom trong 13 ngày nằm viện x 300.000 đồng/ ngày:

3.900.000 đồng;

- Tiền bồi dưỡng sức khoẻ: 30.000.000 đồng;

- Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần: 30 lần mức lương cơ sở x 1.490.000 đồng: 44.700.000 đồng. Tổng cộng các khoản là 85.604.500 đồng.

Đã bồi thường được 16.800.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp số tiền 68.804.500 đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Ngày 29/12/2021, bị hại Đặng Văn D có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo, tăng mức bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại giữ nguyên nội dung kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo, về bồi thường đề nghị buộc bị cáo bồi thường số tiền như bản án sơ thẩm đã tuyên và bồi thường thêm số tiền thuê xe đi lại từ khi vụ án xảy ra đến nay là 20.000.000 đồng. Bị cáo nhất trí với yêu cầu bồi thường của bị hại.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo Mai Ngọc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét kháng cáo của bị hại: Mức án 08 năm tù Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp, đảm bảo răn đe, giáo dục đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị hại không xuất trình thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị hại tăng hình phạt đối với bị cáo. Về bồi thường, tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền như án sơ thẩm đã tuyên và yêu cầu thêm số tiền thuê xe đi lại tổng số là 20 triệu đồng; bị cáo nhất trí bồi thường theo như yêu cầu của bị hại nên cần công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo; căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự sửa một phần bản án sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại.

Do sửa phần bồi thường nên cần sửa án phí dân sự theo đúng quy định. Bị cáo, bị hại không tranh luận với kết luận của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định và đúng theo thủ tục quy định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Mai Ngọc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu được và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 20 giờ 30 ngày 15/5/2018, Mai Ngọc Đ đến nhà anh Nguyễn Văn C để đánh Bi-a, Đ yêu cầu nhóm của D ngừng chơi nhưng D không đồng ý, Đ bực tức nên đã giằng chiếc gậy Bi a, là loại hung khí nguy hiểm anh N đang cầm trên tay, vụt 03 phát liên tiếp vào vùng đầu, cánh tay của anh D gây thiệt hại cho anh D 71% sức khoẻ. Giữa bị cáo và anh D không có mâu thuẫn từ trước, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo đã gây thương tích cho anh D, thể hiện coi thường sức khoẻ của người khác.

Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét kháng cáo của bị hại, Hội đồng xét xử thấy:

- Về hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất vụ án, mức độ phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, mức án 08 năm tù đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm, tại cấp phúc thẩm bị hại không có thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào đối với bị cáo, vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị hại về việc tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

Về bồi thường dân sự: Tại phiên tòa phúc thẩm bị hại đề nghị buộc bị cáo bồi thường số tiền như bản án sơ thẩm đã tuyên và bồi thường thêm số tiền thuê xe đi lại từ khi vụ án sảy ra đến nay là 20.000.000 đồng. Bị cáo nhất trí với yêu cầu bồi thường của bị hại, vì vậy cần ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại, buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại các khoản tiền sau:

- Tiền viện phí, tiền thuốc theo hóa đơn; tiền công người chăm sóc; tiền bồi dưỡng sức khỏe: Tổng cộng là : 40.904.500đ;

- Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần bằng 30 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng = 44.700.000 đồng.

- Tiền thuê xe đi lại là 20.000.000 đồng Buộc bị cáo phải bồi thường tổng số tiền là: 105.604.500 đồng Đã bồi thường được 16.800.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 88.804.500 đồng.

[3] Về án phí: Do kháng cáo về phần bồi thường dân sự được chấp nhận nên cần sửa án phí dân sự có giá ngạch. Bị cáo, bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị hại về hình phạt đối vơi bị cáo; căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 604/2021/HSST ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên về phần bồi thường.

1. Áp dụng điểm d khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Mai Ngọc Đ 8 (tám) năm tù về tội Cố ý gây thương tích . Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/5/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 590; Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Mai Ngọc Đ phải bồi thường thiệt hại sức khỏe cho anh Đặng Văn D tổng số tiền là: 105.604.500 đồng Bị cáo đã bồi thường được số tiền: 16.800.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 88.804.500đ (Tám mươi tám triệu tám trăm linh bốn nghìn năm trăm đồng).

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không tự nguyện thi hành số tiền trên, thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương tứng với thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong. Mức lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền chậm trả. Trường hợp không thỏa thuận được về lãi suất chậm trả thì được xác định bằng 50% của mức lãi suất theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Mai Ngọc Đ phải chịu 4.440.225 đồng án phí dân sự có giá nghạch. Bị cáo, bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 604/2021/HSST ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

538
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 40/2022/HS-PT

Số hiệu:40/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về