Bản án về tội cố ý gây thương tích số 31/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 31/2023/HS-PT NGÀY 08/06/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 08 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 39/2023/TLPT – HS ngày 17 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Tấn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2023/HS-ST ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Tấn P, sinh năm 1987 tại tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Lê Thị Bé E; có vợ và 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn P: ông Nguyễn Văn H – Luật sư Công ty L thuộc Đoàn luật sư tỉnh V; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 07/5/2022, bị cáo Nguyễn Tấn P nhận được điện thoại của vợ tên Nguyễn Lý Thiên H1 nói bị Lê Văn P1 và Nguyễn Thị Tuyết M (là bạn gái của P1) chặn đường và đạp xe của H1. Sau khi nghe điện thoại thì P cho rằng P1 và M đánh vợ mình, P điều khiển xe mô tô biển số 64 C1-xxxxx đi tìm P1. Trên đường đi P lấy con dao dài 37cm, rộng 7,5cm ở sân nhà chị B và điều khiển xe đến nhà P1 nhưng không gặp. P biết P1 đang ở nhà bạn gái P1 (mẹ là Nguyễn Thị H2). Khi đến nhà bà H2, P thấy P1 từ nhà đi lên, P cầm dao rượt đuổi để đánh P1. P1 bỏ chạy ra phía sau nhà nhặt được một đoạn cây khô và rượt lại P. P1 dùng đoạn cây đánh P thì P dùng con dao đỡ làm đoạn cây khô bị gãy. P1 bị ngã xuống nền đất và làm văng đoạn cây xuống đất. P dùng con dao chém một nhát trúng vào phía trước vùng đùi bên phải của P1 gây thương tích. Sau đó được can ngăn thì P đi về nhà. P1 đi điều trị thương tích tại Trung tâm y tế huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 157/2022/TgT ngày 05/9/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Vĩnh Long kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương 1/3 giữa mặt trước đùi phải kích thước 5 x 0,3cm do vật sắc gây ra, không để lại di chứng cố tật.

2. Theo thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Lê Văn P1 là 02% (hai phần trăm).

Tang vật thu giữ:

- 01 (một) con dao chiều dài 37cm, rộng 7,5cm, cán dao bằng kim loại màu trắng; lưỡi dao bằng kim loại màu đen, bề lưỡi sắc bén, mũi dao bằng;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu KITOSU, biển số 63C1-xxxxx;

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số: 082134 mang tên Nguyễn Thị Kim C.

Trách nhiệm dân sự: bị hại Lê Văn P1 yêu cầu bị cáo Nguyễn Tấn P bồi thường chi phí điều trị thương tích, tiền ngày công lao động và các khoản chi phí khác với tổng số tiền: 2.790.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Tấn P đã bồi thường xong.

Tại bản Cáo trạng số: 60/CT-VKSTB ngày 14/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long truy tố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2023/HS-ST ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a, i khoản 1 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Về tội danh: tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “cố ý gây thương tích”.

Về hình phạt: xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/3/2023, bị cáo Nguyễn Tấn P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: tại phiên tòa bị cáo P thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, vật chứng cùng các chứng cứ khác đã thu thập được. Vì vậy có đủ cơ sở để xác định bị cáo P phạm tội cố ý gây thương tích, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ lời khai bị cáo, lời khai bị hại, diễn biến sự việc xảy ra thì bị hại có hành vi dùng cây đánh bị cáo nhiều cái, khi bị hại bị ngã thì bị cáo mới dùng dao chém vào đùi của bị hại, tỷ lệ thương tích 2%. Vì vậy bị hại có lỗi một phần, hành vi phạm tội của bị cáo không thuộc trường hợp có tính chất côn đồ như bản án sơ thẩm đã xử. Bị cáo P có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo P, xử phạt bị cáo P 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội cố ý gây thương tích, thời gian thử thách là 02 năm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm: thống nhất về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ như vị Kiểm sát viên đã phát biểu. Đề nghị xem xét gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội không có tính chất côn đồ, do bị cáo bênh vực vợ. Khi đến gặp bị hại thì bị cáo rượt bị hại, sau đó ra về thì bị hại dùng cây đánh lại bị cáo nhiều cái, khi bị hại bị ngã thì bị cáo mới chém bị hại một cái vào đùi bị hại. Vì vậy đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Tấn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của người làm chứng, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: vào khoảng 19 giờ ngày 07/5/2022, bị cáo Nguyễn Tấn P nhận được điện thoại của vợ là Nguyễn Lý Thiên H1 nói bị Lê Văn P1 và Nguyễn Thị Tuyết M (là bạn gái của P1) chặn đường và đạp vào xe của H1. Bị cáo P điều khiển xe mô tô biển số 64 C1-xxxxx đi tìm P1. Trên đường đi P lấy con dao dài 37cm, rộng 7,5cm ở sân nhà chị B và điều khiển xe đến nhà P1 nhưng không gặp. P biết P1 đang ở nhà bạn gái P1 (mẹ là Nguyễn Thị H2). Khi đến nhà bà H2, P thấy P1 từ nhà đi lên, P cầm dao rượt đuổi để đánh P1. P1 bỏ chạy ra phía sau nhà nhặt được một đoạn cây khô và rượt lại P. P1 dùng đoạn cây đánh P thì P dùng con dao đỡ làm đoạn cây bị gãy. P1 bị ngã xuống nền đất, P dùng con dao chém trúng một nhát vào vùng đùi bên phải của P1 gây thương tích 2%. Do bị cáo P có hành vi dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh P1, hành vi này của bị cáo P đã phạm vào tội “cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như bản án sơ thẩm đã xử là có căn cứ.

[2] Xét bị cáo P kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giảm mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo nhận thấy: nguyên nhân xảy ra sự việc do chị H1 là vợ bị cáo điện thoại nói bị anh P1 và chị M chặn đường, đạp xe của chị. Bị cáo P đã lấy dao và đi đến nhà chị M tìm anh P1, khi gặp anh P1 bị cáo dùng dao rượt đuổi anh P1, anh P1 chạy ra phía sau nhặt được đoạn cây khô quay lại đánh bị cáo P nhiều cái, bị cáo dùng dao đỡ làm gẫy khúc cây khô. Anh P1 bị ngã nên bị cáo dùng dao chém 01 nhát vào phía trước đùi của anh P1. Căn cứ vào diễn biến sự việc nêu trên thì bị hại cũng có lỗi một phần do dùng cây đánh bị cáo, hành vi của bị cáo phạm tội không thuộc trường hợp có tính chất côn đồ như bản án sơ thẩm đã xử.

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây mất an ninh trật tự ở địa phương vì vậy cần có mức hình phạt tương xứng để giáo dục và phòng ngừa. Tuy vậy xét tính chất vụ án ít nghiêm trọng, thương tích của bị hại chỉ có 2%. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại 2.790.000 đồng cho bị hại để khắc phục hậu quả, phía bị hại cũng có một phần lỗi do dùng cây đánh bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo.

Qua xem xét toàn bộ vụ án, tỷ lệ thương tích của bị hại, thái độ, nhân thân và hoàn cảnh gia đình của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy để thể hiện sự khoan hồng và tính nhân đạo của pháp luật, cho bị cáo hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động và chứng tỏ sự hối cải trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú cũng đảm bảo tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo trở thành người tốt và phòng ngừa chung cho xã hội. Mặt khác, việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cũng như cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên phát biểu quan điểm và đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo 01 năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Nhận thấy phát biểu của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định trên nên có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo và sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2023/HS-ST ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “cố ý gây thương tích”. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm, được tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 08/6/2023).

Giao bị cáo Nguyễn Tấn P cho Ủy ban nhân xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Long để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Bị cáo Nguyễn Tấn P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội cố ý gây thương tích số 31/2023/HS-PT

Số hiệu:31/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về