TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 304/2022/HS-ST NGÀY 14/11/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 14 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 293/2022/TLST-HS, ngày 17 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 302/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Y L Niê (Tên gọi khác: Y G) - Sinh ngày: 10/01/1991, tại tỉnh Đắk Lắk.
Nơi cư trú: Buôn M, tổ dân phố B, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Ê đê; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 01/12; họ và tên cha: Y B Hwing, sinh năm 1958; họ và tên mẹ: H Đ Niê (Chết); bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: 03.
- Ngày 05/02/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 02 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 26/2010/HSST), ngày 24/9/2011 chấp hành xong án phạt tù.
- Ngày 24/8/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 06 năm tù, về tội Cướp giật tài sản. (Bản án số 251/2012/HSST), ngày 17/6/2017 chấp hành xong án phạt tù.
- Ngày 07/9/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản. (Bản án số 367/2018/HSPT), ngày 01/5/2021 chấp hành xong án phạt tù.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 31/5/2007, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Anh Y N Hđơk tại Buôn M, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
(Vắng mặt)
Người làm chứng:
1. Bà H H Hđơk, địa chỉ: Buôn M, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
2. Bà H’ F Ktla, địa chỉ: Liên gia A, tổ dân phố B, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
3. Bà H’ D Niê, địa chỉ: Hẻm C, đường D, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
4. Ông Đặng Duy H, địa chỉ: Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Y L Niê có 03 tiền án chưa được xóa án tích về các tội Trộm cắp tài sản và Cướp giật tài sản. Khoảng 20h00’ ngày 13/5/2022, Y L Niê đến nhà anh Y N Hđơk tại Buôn M, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk gặp anh Y N đòi số tiền 200.000 đồng mà anh Y N nợ Y L trước đây. Do anh Y N không có tiền, nên đề nghị Y L đi cùng đến quán Bida “Cô T” ở địa chỉ số 86 đường E để gặp mẹ của anh Y N là bà H H Hđơk đang ăn, uống bia tại đây xin tiền trả cho Y L, thì Y L đồng ý. Khi đến quán Bida “Cô T”, Y L đứng ở ngoài đường đợi, còn anh Y N đi vào trong quán gặp bà H H xin tiền, nhưng bà H H không có đủ tiền nên nói anh Y N quay về nhà lấy. Rồi anh Y N quay về nhà để lấy tiền, nhưng không có nên quay trở lại quán Bida “Cô T”. Lúc này, Y L vẫn đứng trước quán Bida “Cô T” để đợi, anh Y N đi vào trong quán gặp bà H H và nói dối là “Thằng G cắt cổ của con rồi” với mục đích để bà H H cho anh Y N tiền trả cho Y L, nhưng bà H H vẫn không có tiền cho anh Y N. Y L đứng ngoài quán nghe thấy anh Y N nói dối với bà H H nên bực tức, nhặt 01 thanh gỗ dài 23cm, một đầu rộng 06cm, một đầu nhọn, dày 01cm ở lề đường rồi tiến đến vị trí của anh Y N dùng tay phải cầm thanh gỗ đâm phần nhọn của thanh gỗ 03 cái từ trên xuống trúng vào vùng đầu, mặt của anh Y N gây thương tích rách da, chảy máu tại vùng gò má phải, mắt phải và vùng đỉnh trái. Anh Y N bỏ chạy vào trong quán Bida “Cô T”, người dân xung quanh can ngăn nên Y L vứt thanh gỗ lại và bỏ về. Sau đó, anh Y N được người thân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa vùng T, đến ngày 26/5/2022 anh Y N được xuất viện. Khoảng 05, 06 ngày sau, anh Y N trong quá trình tham gia giao thông bị tai nạn gây thương tích tại vùng trán trái nhưng gia đình không đưa anh Y N đi điều trị cũng như không trình báo sự việc với Cơ quan chức năng.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 614/TgT-TTPY, ngày 08 tháng 7 năm 2022, của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận thương tích của anh Y N Hđơk:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương để lại sẹo nằm dọc đỉnh trái (còn rỉ dịch ở giữa) cách đường giữa 5,5cm, đầu dưới của sẹo cách chân tóc trán trái 6cm, kích thước (3 x 1)cm.
- Vết thương để lại sẹo trán trái, sát đường giữa sát bờ dưới chân tóc trán, hơi cong mở xuống dưới sang trái, kích thước (3,5 x 0,1)cm (không có trong hồ sơ bệnh án).
- Vết thương để lại sẹo dọc theo mi trên mắt phải, kích thước (3,5 x 0,2)cm.
- Vết thương để lại sẹo mi dưới mắt phải, sát đuôi mắt phải, kích thước (1 x 0.2)cm.
- Vết thương để lại sẹo gò má phải, kích thước (1,5 x 0,2)cm.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là:
- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích sau khi tổng hợp (cộng) các tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do từng thương tích theo Phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể quy định tại Điều 4 Thông tư 22/2019/TT- BYT (Quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể trong giám định Pháp y...ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế) hiện tại là: 11% (mười một phần trăm).
3. Vật tác động: Vật tày cứng, có cạnh.
4. Cơ chế hình thành thương tích:
- Vết thương để lại sẹo nằm dọc đỉnh trái do vật tày cứng, có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ trái qua phải.
- Vết thương để lại sẹo dọc theo mi trên mắt phải và vết thương để lại sẹo mi dưới mắt phải do vật tày cứng, có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ phải sang trái.
- Vết thương để lại sẹo gò má phải do vật tày cứng, có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ phải sang trái.
5. Kết luận khác:
- Vết thương để lại sẹo trán trái, sát đường giữa sát bờ dưới chân tóc trán, hơi cong mở xuống dưới sang trái, kích thước (3,5 x 0,1)cm (không có trong hồ sơ bệnh án) nên không có đủ cơ sở để đánh giá tỷ lệ tổn thương cơ thể.
Tại Cáo trạng số 304/CT-VKS ngày 14/10/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Y L Niê về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại các điểm a, i Khoản 1; điểm d, đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.
Quá trình tranh luận, đại diện VKSND thành phố Buôn Ma Thuột tham gia phiên tòa đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Y L Niê về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Đề nghị xử phạt: Y L Niê từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.
Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về bồi thường thiệt hại: Ông Y N Hđơk không yêu cầu bị cáo Y L Niê phải bồi thường nên không đề nghị xem xét giải quyết.
- Về xử lý vật chứng: Đối với 01 thanh gỗ dài 23cm, một đầu rộng 06cm, một đầu nhọn, dày 01cm mà Cơ quan điều tra tạm giữ. Quá trình điều tra xác định thanh gỗ trên là hung khí mà bị cáo Y L Niê sử dụng để gây thương tích cho anh Y N Hđơk, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu, tiêu hủy.
Bị cáo không tranh luận gì, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Y L Niê đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại quán Bida “Cô T” ở địa chỉ đường E. Y L Niê đã sử dụng 01 thanh gỗ dài 23cm, một đầu rộng 06cm, một đầu nhọn, dày 01cm đâm trúng vào vùng đầu, mặt của anh Y N Hđơk, gây tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Y L Niê về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:
Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm… i) Có tính chất côn đồ….;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.” [3] Bị cáo Y L có đủ nhận thức để biết được rằng mọi hành vi xâm phạm đến sức khoẻ của người khác trái pháp luật đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Song với ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khoẻ của người khác, bị cáo đã gây thương tích cho bị hại. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt, là người dân tộc thiểu số nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, không những gây tổn hại đến sức khỏe của người khác mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an chung tại địa phương, vì vậy phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đ ã gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
[5] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về trách nhiệm dân sự: Ông Y N Hđơk không yêu cầu bị cáo Y L Niê phải bồi thường nên HĐXX không xem xét giải quyết.
- Về xử lý vật chứng: Đối với 01 thanh gỗ dài 23cm, một đầu rộng 06cm, một đầu nhọn, dày 01cm mà Cơ quan điều tra tạm giữ. Quá trình điều tra xác định thanh gỗ trên là hung khí mà bị cáo Y L Niê sử dụng để gây thương tích cho anh Y N Hđơk, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[6] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm d, đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[1] Tuyên bố: Bị cáo Y L Niê phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
- Xử phạt: Bị cáo Y L Niê 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.
[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy đối với 01 thanh gỗ dài 23cm, một đầu rộng 06cm, một đầu nhọn, dày 01cm.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Y L Niê phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí HSST.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 304/2022/HS-ST
Số hiệu: | 304/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về