Bản án về tội cố ý gây thương tích số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 14/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 370/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 382/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Nhật D (Tí Bo) sinh ngày 18 tháng 3 năm 1996 tại thành phố N, tỉnh H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 17A Cồn Giữa, phường Xương Huân, thành phố N, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Số 90 LK 513 Khu đô thị Thái Hưng, xã Vĩnh Thái, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: thợ hớt tóc; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành T (sinh năm 1971) và bà Nguyễn Trương Kim C (sinh năm 1975); tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Nguyễn Thành T sinh ngày 27 tháng 8 năm 1971 tại thành phố N, tỉnh H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 17A Cồn Giữa, phường Xương Huân, thành phố N, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Số 90 LK 513 Khu đô thị Thái Hưng, xã Vĩnh Thái, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành H (chết) và bà Lê Thị Đa (chết); có vợ là Nguyễn Trương Kim C (sinh năm 1975) và có 06 con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

3. Nguyễn Trương Kim C sinh ngày 18 tháng 02 năm 1975 tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 17A Cồn Giữa, phường Xương Huân, thành phố N, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Số 90 LK 513 Khu đô thị Thái Hưng, xã Vĩnh Thái, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn A (chết) và bà Trương Thị Đ (chết); có chồng là Nguyễn Thành T (sinh năm 1971) và có 06 con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự:

không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

4. Nguyễn Nhật T sinh ngày 06 tháng 5 năm 2001 tại thành phố N, tỉnh H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 17A Cồn Giữa, phường Xương Huân, thành phố N, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Số 90 LK 513 Khu đô thị Thái Hưng, xã Vĩnh Thái, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: thợ hớt tóc; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính:

nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành T (sinh năm 1971) và bà Nguyễn Trương Kim C (sinh năm 1975); tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa: Luật sư Trần Thị H, Công ty Luật TNHH MTV Nam Sơn - C nhánh H thuộc Đoàn luật sư tỉnh H và luật sư Lê Hồng Q, Công ty Luật TNHH Olympic- C nhánh H thuộc Đoàn luật sư tỉnh H bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T; có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Thành S sinh ngày 20/10/1973; nơi cư trú: Số 20 Nguyễn An, phường Vĩnh Hòa, thành phố N, tỉnh H; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Mỹ Th sinh năm 1978; nơi cư trú: Số 20 Nguyễn An, phường Vĩnh Hòa, thành phố N, tỉnh H; có mặt.

2. Anh Phan Văn Th1 sinh năm 2000; nơi cư trú: Số 404/5/18B Lê Hồng Phong, phường Phước Long, thành phố N, tỉnh H; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vợ chồng Nguyễn Thành T và Nguyễn Trương Kim C có mâu thuẫn về vấn đề liên quan đến đất đai với Nguyễn Thành S. Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 16/11/2020, Nguyễn Thành T đến nhà S tại số 20 Nguyễn An, phường Vĩnh Hòa, thành phố N, để nói chuyện, cùng lúc này Nguyễn Trương Kim C cũng cùng con trai là Nguyễn Nhật D đi theo. Đến nơi, thấy S không có ở nhà nên T, C, D đứng đợi ở trước cửa nhà. S vừa về nhà thì giữa C và S xảy ra cãi vã, C lao vào nắm cổ áo làm S ngã xuống đất và C dùng cùi chỏ đánh vào lưng S, đồng thời T nằm đè lên người S dùng tay và chân đánh đấm nhiều cái vào bụng và người S. Đúng lúc đó, con trai của C và T là Nguyễn Nhật T cũng đến trước nhà S, T thấy C và T đánh S, còn Nguyễn Nhật D nhặt một đoạn cây gỗ dài khoảng 60 cm ở bên đường đến đánh nhiều cái về phía S gây thương tích chảy máu vùng mũi. Sau đó, C gọi T đến ôm S, khống chế không cho S bỏ chạy để T tiếp tục dùng tay đấm 02 cái vào người S. Một lúc sau, thấy anh S bị chảy nhiều máu thì gia đình T, C, D và T đi về, S được đưa đi Bệnh viên đa khoa tỉnh H cấp cứu.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 12/TgT-TTPY ngày 08/01/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế H kết luận: Tổng tỷ lệ thương tổn cơ thể của Nguyễn Thành S là 11%.

Tại bản cáo trạng số 276/CT-VKSNT ngày 23/9/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh H đã truy tố các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh H giữ nguyên nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T; đề nghị xử phạt các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T và Nguyễn Trương Kim C mỗi bị cáo từ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng đến 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích”; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Nhật T từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại là ông Nguyễn Thành S vắng mặt, nên đề nghị Hội đồng xét xử tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

Bào chữa cho các bị cáo, luật sư Trần Thị H và luật sư Lê Hồng Q đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Các lời khai, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, quá trình điều tra và diễn biến tại phiên tòa phát sinh nhiều mâu thuẫn gây bất lợi cho các bị cáo, cụ thể: Kết luận giám định thương tật của bị hại không trùng khớp với Giấy chứng nhận thương tích của bị hại về thương tích của bị hại; việc xác định hung khí nguy hiểm và vị trí tác động vào cơ thể bị hại còn nhiều mâu thuẫn, không có sự thống nhất giữa các lời khai; cơ quan điều tra không thu thập được vật chứng; chưa tiến hành thực nghiệm lại hiện trường nên chưa đủ cơ sở để xác định được đoạn cây mà bị cáo D sử dụng để có căn cứ xác định bị cáo D đã sử dụng hung khí nguy hiểm; chưa làm rõ cơ chế hình thành vết thương của bị hại; chưa đủ cơ sở để kết luận thương tích của bị hại do bị cáo D gây ra; mặt khác, trong trường hợp xác định bị cáo D dùng hung khí nguy hiểm gây ra thương tích cho bị hại thì cũng không thể quy kết cho cả ba bị cáo còn lại về tình tiết này vì giữa các bị cáo không hề có sự bàn bạc trước với nhau; việc vị đại diện viện kiểm sát áp dụng tình tiết “Có tính chất côn đồ” là không phù hợp và bất lợi cho các bị cáo vì nguyên nhân dẫn đến hành vi của các bị cáo là do lỗi của bị hại; nguyên nhân chính dẫn đến xô xát là có mâu thuẫn về tranh chấp đất đai giữa bị cáo và bị hại; bản thân bị hại đã có hành vi chửi bới, thách thức và tác động trước đối với bị cáo C; các bị cáo đều có nhân thân tốt; vị đại diện viện kiểm sát chưa phân hóa cụ thể vai trò, mục đích và hành vi của từng bị cáo trong vụ án.. Từ những phân tích nêu trên, cả hai vị luật sư đều đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung để tiến hành giám định lại thương tích đối với bị hại Nguyễn Thành S; thu thập hình ảnh camera để xác định đoạn cây mà bị cáo D sử dụng; vị trí mà bị cáo D tác động vào cơ thể của bị hại; lấy lại lời khai; tiến hành đối chất giữa các bị cáo và bị hại; dựng lại hiện trường để xác định cơ chế hình thành vết thương của bị hại; làm rõ việc bị cáo T có tham gia đánh bị hại hay không; nếu bị cáo T không tham gia đánh bị hại thì xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa, bị hại là ông Nguyễn Thành S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; xét thấy sự vắng mặt của bị hại trên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là có tính khách quan và hợp pháp.

[3] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi mà các bị cáo đã thực hiện như nội dung cáo trạng nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; giấy chứng nhận thương tích; bản kết luận giám định pháp y về thương tích của bị hại là ông Nguyễn Thành S; phù hợp với lời khai của những người làm chứng tại phiên tòa; phù hợp với lời khai của bị hại có trong hồ sơ vụ án; cũng như phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đã thể hiện: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 16/11/2020, tại nhà số 20 Nguyễn An, phường Vĩnh Hòa, thành phố N, Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T đã có hành vi dùng tay, chân và một cây gỗ đánh vào người của ông Nguyễn Thành S gây thương tích cho ông S với lỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%; do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh H đã truy tố bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 Điều 134) Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T là nghiêm trọng; chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ liên quan đến vấn đề đất đai mà các bị cáo đã dùng tay, chân và sử dụng hung khí là cây gỗ gây thương tích cho bị hại là ông Nguyễn Thành S với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%; hành vi của các bị cáo đã thể hiện tính côn đồ, coi thường sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương; do đó, cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ, vai trò và nhân thân của từng bị cáo trong vụ án thì thấy rằng:

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Nguyễn Trương Kim C đã có hành vi lao vào nắm cổ áo làm ông Nguyễn Thành S ngã xuống đất và dùng cùi chỏ đánh vào lưng ông S và là người gọi bị cáo Nguyễn Nhật T đến ôm ông S, khống chế không cho ông S bỏ chạy; bị cáo Nguyễn Thành T đã có hành vi nằm đè lên người ông Nguyễn Thành S, dùng tay, chân đánh đấm nhiều cái vào bụng và người ông S; khi ông S bị bị cáo Nguyễn Nhật T ôm, khống chế không cho bỏ chạy thì bị cáo T lại tiếp tục dùng tay đấm hai cái vào người ông S; bị cáo Nguyễn Nhật D đã có hành vi nhặt một đoạn cây gỗ dài khoảng 60 cm ở bên đường đến đánh nhiều cái về phía ông Nguyễn Thành S gây thương tích chảy máu vùng mũi của ông S; bị cáo Nguyễn Nhật T đã có hành vi giúp sức ôm, khống chế không cho ông Nguyễn Thành S bỏ chạy để đồng phạm tiếp tục thực hiện tội phạm; do đó, cần thiết phải xác định một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo mới có đủ tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo đã thành khẩn khai báo; sau khi sự việc xảy ra, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại với số tiền là 30.000.000 đồng, nhằm khắc phục một phần hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, nên xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự nhân đạo, khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại là ông Nguyễn Thành S vắng mặt, không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét, nên tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

[5] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 Điều 134);

điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Nhật D, Xử phạt Nguyễn Nhật D (Tí Bo) 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thành T,

Xử phạt Nguyễn Thành T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trương Kim C, Xử phạt Nguyễn Trương Kim C 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Nhật T, Xử phạt Nguyễn Nhật T 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi bị hại là ông Nguyễn Thành S có đơn yêu cầu.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố Tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc các bị cáo Nguyễn Nhật D, Nguyễn Thành T, Nguyễn Trương Kim C và Nguyễn Nhật T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về