TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 27/2021/HS-PT NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 21 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/TLPT-HS, ngày 07/7/2021 đối với bị cáo Phùng Hoa N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HS-ST, ngày 02 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Bị cáo có kháng cáo: Phùng Hoa N, sinh ngày 19/11/1998 tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Tiền án, tiền sự: không; Con ông Phùng Văn C, sinh năm 1968 và bà Đỗ Thị M, sinh năm 1977; Có vợ tên: Nguyễn Thị X, sinh năm 1999; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/01/2021 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng do không có kháng cáo, kháng nghị nên không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 14/11/2020, Trịnh Chí T đến nhà của Trương Bá V uống bia cùng với bị cáo, Phùng Văn C (cha của bị cáo) và một số người khác. Trong lúc uống bia, Thanh gọi ông C là “C Mồng”, lúc này, bị cáo cho rằng T xúc phạm cha của mình nên xảy ra cự cãi với T. Bị cáo cầm chai bia định đánh T, T cũng nhặt lấy cây định đánh lại nhưng được mọi người can ngăn nên bị cáo bỏ về nhà của mình và T cũng ra về. Khoảng 15 phút sau thì T lấy cây kéo dài 15cm để trên xe honda chạy đi tìm bị cáo.
Khi bị cáo về nhà thì có gọi điện cho Nguyễn Nhã T1 chạy xe đến chở bị cáo lại nhà T1 chơi, T1 điều khiển xe chở bị cáo chạy trên Tỉnh lộ 911 hướng về nhà T1, cách nhà bị cáo khoảng 76 mét thì thấy T không mặc áo, điều khiển xe chạy ngược lại. Lúc này khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi hai xe còn cách nhau khoảng 5 mét thì T dừng xe lại cặp lề phải hướng đi và xuống xe, bị cáo cũng kêu T1 dừng xe lại để bị cáo xuống xe. Bị cáo và T đứng hai bên lề lộ cự cãi nhau. Thấy vậy, T1 đi qua lộ nói chuyện khuyên T. Bị cáo chạy bộ về nhà, lấy cây dao tự chế (cây kiếm) chạy lại chỗ T và rút cây dao trong võ ra, tay trái cầm vỏ dao, tay phải cầm dao. Lúc này, T1 đang đứng nói chuyện với T, bị cáo xô T1 sang một bên, đứng đối diện và cự cãi với T rồi cầm dao ở tay phải chém vào người T, lần thứ nhất theo hướng từ phải sang trái xiên từ trên xuống nhưng không trúng T, nhưng khi bị cáo rút dao về từ trái sang phải thì trúng vào vùng bụng bên phải của T, lần thứ hai bị cáo chém từ phải sang trái thì T đưa tay trái lên đỡ và trúng cổ tay trái của T. Thấy bị cáo chém T bị thương nên T1 ôm bị cáo cản lại không cho chém T nữa và kêu T lên xe để T1 chở T về nhà. Sau đó T trình báo Công an xã T rồi được người nhà đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh cấp cứu đến ngày 16/11/2020 được xuất viện.
Về vật chứng: Ngày 15/11/2020, Phùng Hoa N đã giao nộp cho Công an xã T 01 cây dao tự chế (cây kiếm) có chiều dài 58,2 cm, cán hình trụ tròn dài 18,2 cm, đầu cán hình tròn có in nổi hoa văn đường kính 4,8 cm, cán được quấn bằng tơ sơ dừa bên ngoài, lưỡi dao dài 40 cm, rộng 3,5 cm mũi nhọn có hai cạnh sắc để trong bao vỏ có chiều dài 44,8 cm, bên ngoài có quấn tơ sơ dừa. Bị cáo xác định đây là cây dao mà bị cáo dùng để chém gây thương tích cho Trịnh Chí T.
Ngày 23/11/2020, Trịnh Chí T làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với Phùng Hoa N.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 131/20/TgT ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Trung tâm Pháp y – Sở y tế Trà Vinh kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Trịnh Chí T là 16%. Cơ chế hình thành vết thương: Do ngoại lực tác động trực tiếp; vật gây ra thương tích trên là vật cứng có cạnh sắc, hướng từ trên xuống.
Đối với việc bị cáo Phùng Hoa N dùng dao chém Trịnh Chí T gây thương tích thì T1 hoàn toàn không biết. Trước khi chém T, bị cáo không nói cho T1 biết, mà là do tự bộc phát lúc trên đường T1 điều khiển xe chở bị cáo về nhà T1 chơi thì gặp T. Bị cáo và T cự cãi về mâu thuẫn trước đó rồi bị cáo chạy về nhà lấy dao chém T gây thương tích. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xử lý T1.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trịnh Chí T, chị Nguyễn Thị L (vợ của Trịnh Chí T) và bị cáo thỏa thuận bồi thường các khoản chi phí gồm tiền điều trị, thuốc, ngày công lao động và các chi phí khác có liên quan với tổng số tiền là 40.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường xong.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HS-ST ngày 02/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Phùng Hoa N phạm tội “Cố ý gây thương tích” Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phùng Hoa N 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và dành quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/6/2021, bị cáo Phùng Hoa N nộp đơn kháng cáo, yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Phùng Hoa N thừa nhận bị cáo là người dùng dao gây thương tích cho bị hại Trịnh Chí T với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 16% và xác nhận toàn bộ hành vi phạm tội cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” là đúng với hành vi của bị cáo, không oan, không sai. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt hưởng án treo.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh: Sau khi xem xét toàn diện các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Qua tranh tụng công khai tại phiên tòa hôm nay có đủ cơ sở xác định vào ngày 14/11/2020 bị cáo Phùng Hoa N có hành vi sử dụng dao là hung khí nguy hiểm chém gây thương tích cho bị hại Trịnh Chí T với tỷ lệ thương tích cơ thể theo kết luận giám định là 16%. Do đó bản án sơ thẩm quy kết bị cáo Phùng Hoa N phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng với hành vi của bị cáo gây ra, tuy nhiên với mức hình phạt 02 (hai) năm tù mà cấp sơ thẩm xét xử là quá nghiêm khắc đối với bị cáo. Bởi lẽ trong vụ án này phía bị hại cũng có phần lỗi dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo; hiện tại bị cáo đang sống cùng với dì ruột bà Trần Thị S – là thương binh hạng 2/4, hiện bà S đã 66 tuổi, không còn sức lao động và bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự khi lượng hình cho bị cáo. Do đó, việc bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo là có căn cứ.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận yêu cầu kháng cáo bị cáo, sửa án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Phùng Hoa N là trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về tố tụng: Các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đều đúng với quy định pháp luật, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì đối với các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[3] Đối với yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt xin hưởng án treo của bị cáo Phùng Hoa N. Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Phùng Hoa N thừa nhận bị cáo là người trực tiếp dùng dao gây thương tích cho bị hại Trịnh Chí T với tỷ lệ là 16%. Bị cáo xác nhận lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm là do bị cáo tự khai không bị ép buộc hay bị dùng nhục hình. Như vậy có căn cứ xác định lời khai của bị cáo là khách quan, trung thực. Do đó, án sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là chính xác, đúng pháp luật.
Mặc dù trong vụ án này giữa bị cáo và bị hại từ trước đến nay không có mâu thuẫn gì, chỉ là vào ngày 14/11/2020 khi nghe bị hại gọi cha bị cáo là “C Mồng”, bị cáo cho rằng đó là sự xúc phạm nên khi gặp lại bị hại thì cả hai có cực cãi và bị cáo mới phát sinh ý định chạy về nhà lấy dao chạy lại gây thương tích cho bị hại. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của bị hại trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật. Tuy nhiên, án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 02 (hai) năm tù là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo, bởi lẽ qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa hôm nay cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện phía bị hại Trịnh Chí T cũng có một phần lỗi để dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo khi T có lời nói trêu ghẹo cha của bị cáo (BL 82), hai bên xảy ra cự cãi, được mọi người can ngăn nhưng sau đó bị hại tiếp tục chạy xe đi tìm bị cáo để tiếp tục xảy ra cự cãi và xô xác; hiện tại bị cáo sống cùng với người dì ruột là Trần Thị S – là thương binh hạng 2/4, bà S đã 66 tuổi, không còn khả năng lao động và cần người chăm sóc; do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Các tình tiết này chưa được cấp sơ thẩm áp dụng khi lượng hình cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án hình sự sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[3] Đề nghị của Viện Kiểm sát xét xử phúc thẩm có phần phù hợp với tình tiết khách quan vụ án và nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, không sửa đổi có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Phùng Hoa N.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HSST, ngày 02/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phùng Hoa N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo đi chấp hành án;
Án phí: Bị cáo Phùng Hoa N không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không sửa đổi đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 27/2021/HS-PT
Số hiệu: | 27/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về